Minamino Takumi
Minamino Takumi (Nhật:
Minamino trong màu áo Red Bull Salzburg vào năm 2018 | |||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ |
南野 拓実 (みなみの たくみ) Minamino Takumi | ||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 16 tháng 1, 1995 | ||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Izumisano, Ōsaka, Nhật Bản | ||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,74 m (5 ft 9 in) | ||||||||||||||||||||||
Vị trí | |||||||||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Monaco | ||||||||||||||||||||||
Số áo | 18 | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||
2004–2017 | Sessel Kumatori FC | ||||||||||||||||||||||
2007–2009 | U-15 Cerezo Osaka | ||||||||||||||||||||||
2009–2012 | U-18 Cerezo Osaka | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2012–2014 | Cerezo Osaka | 62 | (7) | ||||||||||||||||||||
2015–2020 | Red Bull Salzburg | 136 | (42) | ||||||||||||||||||||
2020–2022 | Liverpool | 30 | (4) | ||||||||||||||||||||
2021 | → Southampton (mượn) | 10 | (2) | ||||||||||||||||||||
2022– | Monaco | 51 | (11) | ||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2011 | U-17 Nhật Bản | 4 | (1) | ||||||||||||||||||||
2012 | U-20 Nhật Bản | 8 | (5) | ||||||||||||||||||||
2016 | U-23 Nhật Bản | 3 | (1) | ||||||||||||||||||||
2015– | Nhật Bản | 61 | (23) | ||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 1 tháng 9 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 10 tháng 9 năm 2024 |
Sự nghiệp câu lạc bộ
Trước khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp
Khi còn học tiểu học, anh là một thành viên của đội bóng Sessel Kumatori FC. Đồng đội khi ấy của anh là Muroya Sei. Năm 2007, sau rất nhiều lời đề nghị từ các học viện đào tạo bóng đá, khi lên cấp 2, anh đã gia nhập đội U-15 Cerezo Osaka.
Năm 2009, đội của anh đã giành được vị trí thứ 8 tại Giải bóng đá thiếu niên Nhật Bản (U-15) lần thứ 24, tại đây anh cũng ghi được danh hiệu vua phá lưới với 8 bàn thắng.[1]
Năm 2010, anh được lên đội U-18 Cerezo Osaka. Tại giải đấu Takamado Cup U-18 năm 2010: Prince League (khu vực Kansai), trong trận đấu đầu tiên anh đã đóng góp cú hat-trick vào chiến thắng của đội trước đội bóng trường Trung học Khoa học và Công nghệ thành phố Kobe[2], sau đó đội của anh đã giành được vị trí đầu tiên mà không thua một trận nào[3].
Năm 2011, tại giải đấu Takamado Cup U-18 2011: Premier League, anh xếp vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng vua phá lưới (khu vực phía Tây) với 9 bàn thắng[4]. Ngoài ra, tại Giải vô địch bóng đá trẻ J-League (J Youth Cup) lần thứ 19, anh đã ghi được 13 bàn thắng sau 8 trận đấu và trở thành vua phá lưới.[5]
Tháng 8 năm 2012, anh cùng với Akiyama Daichi có suất trong đội 1 khi đang còn được đăng kí chơi trong đội loại 2 (Nhật Bản có 6 loại đội bóng. Đội loại 2 để chỉ đội U-18 hoặc đội bóng trường THPT[6]). Trận đấu chính thức đầu tiên của anh gặp đội Omiya Ardija tại vòng 32 J1 League. Trong trận cuối cùng tại J1 League gặp Kashikawa Frontale, anh lần đầu tiên được ra sân chính thức từ đầu và chơi suốt 90 phút. Bàn thắng chính thức đầu tiên của anh được ghi trong trận gặp Shimizu S-Pulse tại vòng 4 Cúp Hoàng đế 2012. Cùng năm, tại giải đấu Takamado Cup U-18 2012: Premier League, anh ghi được 16 bàn thắng và xếp thứ 2 trong BXH vua phá lưới[7].
Cerezo Osaka
Minamino đã có 62 lần ra sân ở J1 League cho Cerezo Osaka, thi đấu cùng Diego Forlán, nhưng đội đã xuống hạng trong mùa giải cuối cùng của anh.
Năm 2013, anh được thăng hạng lên đội 1 cùng với các cầu thủ Akiyama Daichi, Okada Takeru và Kogure Daiki. Anh đã nhận số áo 13 từ cầu thủ Kakitani Yoichiro. Anh được lựa chọn trong đội hình xuất phát ngay từ trận khai mạc gặp Albirex Niigata, lần đầu tiên trong lịch sử CLB Cerezo Osaka, có một tân binh mới tốt nghiệp trung học được chọn là cầu thủ trong đội hình xuất phát trong trận khai mạc[8]. Anh đã ghi được bàn thắng đầu tiên tại J1 League trong trận gặp Júbilo Iwata ở vòng 14 và đã phá kỉ lục cầu thủ trẻ tuổi nhất ghi bàn tại J1 League của Cerezo Osaka (18 tuổi 5 tháng 20 ngày) do cầu thủ Okubo Yoshito nắm giữ trước đây.[9]. Ngày 26/7 cùng năm, trong trận đấu giao hữu quốc tế với Manchester United, anh đã cho thấy nỗ lực đáng kể khi đóng góp trực tiếp vào số bàn thắng[10] và cũng đã nhận được sự đánh giá cao từ các cầu thủ và HLV của Manchester United[11][12]. Dù là tân binh nhưng với tư cách là chủ lực của CLB, anh đã nhận được giải "Tân binh xuất sắc nhất J-League", khi để lại kết quả ghi được 5 bàn thắng sau 29 trận (nếu tính cả các giải đấu tranh cup, thì tổng cộng là 8 bàn/38 trận).
Năm 2014, chính vì những đột phá của năm trước, đây là mùa giải anh và CLB đã nhận được những sự kì vọng lớn[13], tuy nhiên họ đã không thể cải thiện điểm số ngay từ lúc bắt đầu. Trải qua nhiều lần thay đổi HLV, cuối mùa giải họ chỉ xếp ở vị trí 17/20 và phải xuống chơi ở J2 League. Anh đã kết thúc với một kết quả không mong muốn[13], khi chỉ ghi được 2 bàn thắng và còn phải nhận 2 thẻ đỏ (1 trong trận gặp Pohang Steelers tại AFC Champions League[14], 1 trong trận gặp Kawasaki Frontale tại |J1 League.[15]).
Red Bull Salzburg
Câu lạc bộ Red Bull Salzburg đã theo dõi Minamino trong một năm rưỡi trước khi ký hợp đồng với anh vào ngày 7 tháng 1 năm 2015, bản hợp đồng kéo dài đến năm 2018 với tùy chọn kéo dài thêm một năm nữa.[16] Ngày 6 tháng 1 năm 2015, Osaka xác nhận thông tin vụ chuyển nhượng Minamino đến Red Bull Salzburg tại Bundesliga Áo đã được hoàn tất.[17]
Tại Red Bull Salzburg, Minamino được trao số áo 18.[18] Ngày 13 tháng 2 năm 2015, anh có màn ra mắt trong trận đấu gặp SC Wiener Neustadt tại vòng 20, với vai trò tiền vệ cánh phải.[19] Anh có trận đấu đầu tiên tại đấu trường châu Âu vào ngày 26 tháng 2, đối đầu với Villarreal trong khuôn khổ lượt về vòng 32 đội UEFA Europa League, Salzburg đã có trận thua 1–3 trên sân nhà (tổng cộng 2-5 sau hai lượt) và Minamino cũng chỉ chơi hiệp đầu tiên trước khi được thay bởi Felipe Pires.[20] Ngày 4 tháng 3 năm 2015, anh đã ghi được 2 bàn vào lưới FC Admira Wacker Mödling tại vòng 23, đây là những bàn thắng đầu tiên của anh sau khi chuyển đến Áo.[21]
Mùa giải 2015-2016, anh đã ghi được bàn thắng đầu tiên trong trận đấu đầu tiên của anh tại Cúp bóng đá Áo vào ngày 18/7 trước đội Deutschlandsberger SC ở vòng 1. Ngày 27/8, anh góp mặt trong trận gặp FC Dinamo Minsk tại UEFA Europa League, anh ghi được 1 bàn thắng nhưng Red Bull Salzburg đã bị loại ở vòng play-off. Trong mùa giải, với tư cách là cầu thủ chủ lực, anh đã đóng góp 10 bàn thắng vào chiến thắng của đội.
Mùa giải 2016-2017, trong trận gặp SV Ried tại vòng 22 diễn ra vào ngày 19/2/2017, anh đã ghi được 3 bàn thắng và 1 pha kiến tạo, đó là cú hat-trick đầu tiên kể từ khi anh thi đấu chuyên nghiệp. Và trong 2 mùa giải liền, anh đã ghi được số bàn thắng có 2 chữ số.
Mùa giải 2017-2018, anh ghi bàn thắng đầu tiên ở trận gặp Hibernians FC trong khuôn khổ vòng loại thứ 2 UEFA Champions League. Ngày 22/7, anh có bàn thắng trong trận mở màn tại Bundesliga Áo gặp đội Wolfsberger AC. Ngày 5/11, trong trận gặp SKN St. Pölten tại vòng 14, anh phải rời sân vì chấn thương nhưng đã ghi được 2 bàn. Vào ngày 14/2/2018, anh đã ghi 1 bàn thắng khi đối đầu với Real Sociedad ở trận lượt đi vòng 32 đội UEFA Europa League.
Mùa giải 2018-2019, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong trận gặp FC Admira Wacker Mödling tại vòng 6 diễn ra vào ngày 2/9/2018[22]. Vào ngày 8/11, anh đã thi đấu thành công khi lập được cú hat-trick chỉ trong hiệp 1 khi đối đầu với Rosenborg BK ở khuôn khổ lượt trận thứ 4 vòng bảng UEFA Europa League[23].
Liverpool
Vào tháng 12 năm 2019, Liverpool đã đồng ý một thỏa thuận ký hợp đồng với Minamino từ Salzburg vào tháng 1 năm 2020 sau khi kích hoạt điều khoản giải phóng hợp đồng 7,25 triệu £ của anh.[24] Christoph Freund, giám đốc thể thao của Salzburg nhận xét rằng "Các câu lạc bộ lớn đã theo dõi anh ấy và nếu tôi là họ, tôi sẽ không ngần ngại ký hợp đồng với anh ấy. Takumi đã sẵn sàng cho một hành trình tiếp theo vào tháng 1."[25] Ngày 18 tháng 12 năm 2019, anh đã hoàn tất buổi kiểm tra y tế tại Liverpool để chuẩn bị cho việc chuyển thức chuyển đến đội bóng này vào ngày 1 tháng 1 năm 2020.[26] Minamino khoác áo số 18 tại Liverpool, số áo chưa có ai mặc kể từ khi Alberto Moreno chuyển đi vào mùa hè năm 2019 và đây là số áo đã từng được mặc bởi Dirk Kuijt, John Arne Riise và Michael Owen.
Southampton (mượn)
Ngày 1 tháng 2 năm 2021, Minamino chuyển đến Southampton theo hợp đồng cho mượn có thời hạn đến cuối mùa bóng 2020–21. Anh là cầu thủ Nhật Bản thứ hai thi đấu cho Southampton, sau Yoshida Maya.[27]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm 2009, anh được chọn vào Đội tuyển U-15 quốc gia Nhật Bản và tham dự vòng loại AFC U-16 Championship 2010. Anh đã có cú hat-trick trong trận đấu với Philippines. Tại vòng chung kết, U-15 Nhật Bản lọt đến top 4, còn Minamino đã ghi 5 bàn và trở thành vua phá lưới của giải đấu.
Năm 2011, trước thềm Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2011, một bài báo có nhan đề "Takumi Minamino, Japan's lethal weapon (Minamino Takumi, vũ khí tối thượng của Nhật Bản)" được đăng lên trang chủ chính thức của FIFA, anh được kì vọng là con át chủ bài của U-17 Nhật Bản[28]. Tuy nhiên, trước giải đấu anh ấy đã không có trạng thái tốt nhất và chỉ ghi được 1 bàn thắng, nhưng U-17 Nhật Bản đã lọt vào top 8 đội mạnh nhất sau 18 năm kể từ giải đấu họ làm đội chủ nhà vào năm 1993.
Năm 2014, tại giải U19 Quốc tế 2014 – Nutifood Cup được tổ chức tại Việt Nam vào tháng 1, anh đã nhận được danh hiệu MVP – cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu[29][30]. Tháng 4, anh tham gia trại huấn luyện cho ứng cử viên đội tuyển Nhật Bản[31]. Anh đã không được chọn làm thành viên của đội tuyển quốc gia Nhật Bản tham dự FIFA World Cup 2014, không có cầu thủ nào của đội tuyển Nhật Bản dự World Cup ở độ tuổi thanh thiếu niên kể từ sau cầu thủ Ono Shinji, tuy nhiên anh cũng đã được điền tên trong danh sách đăng kí sơ bộ[32]. Tại giải AFC U-19 Championship 2014 được tổ chức tại Myanmar, anh đã có màn thể hiện xuất sắc khi ghi được 4 bàn sau 4 trận, tuy nhiên cuối cùng U-19 Nhật Bản đã phải dừng lại ở vòng tứ kết chỉ vì quả penalty hỏng của chính anh[33][34].
Năm 2015, anh được chọn trong trận gặp đội tuyển quốc gia Syria tại vòng loại FIFA World Cup 2018 khu vực châu Á (Vòng 2) diễn ra vào tháng 10, đây là lần đầu tiên anh được chọn vào đội tuyển quốc gia[35]. Ngày 13/10, anh đã chơi trận đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia trong trận giao hữu quốc tế gặp đội tuyển Iran.
Năm 2016, anh được gọi tham dự giải đấu AFC U-23 Championship 2016, đây cũng là vòng loại cho giải bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016. Trong lượt trận thứ 3 vòng bảng gặp U-23 Ả Rập Xê Út, từ phía cánh phải, anh đã rê bóng thành công và kiến tạo Ideguchi Yosuke ghi bàn. Tại Thế Vận hội Mùa hè 2016, trong trận đầu tiên gặp đội tuyển U-23 Nigeria vào ngày 4/8, anh đã ghi bàn gỡ hòa, nhưng U-23 Nhật Bản đã thua với tỉ số 4 – 5. Anh đã chơi cả 3 trận đấu vòng bảng, tuy nhiên U-23 Nhật Bản đã bị loại tại đây.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Nhật Bản tại Kirin Challenge Cup trước đội tuyển Costa Rica[36]. Ngày 12/10, trong trận gặp đội tuyển Panama, anh đã ghi bàn thắng dẫn trước ở phút 42[37]. Ngày 16/10, với việc ghi bàn dẫn trước đội tuyển Uruguay, và sau đó ghi thêm bàn thắng thứ 4 vào phút 66, anh đã ghi bàn trong 3 trận liên tiếp[38]. Việc ghi bàn trong 3 trận liên tiếp kể từ trận đấu đầu tiên sau khi thay đổi HLV đội tuyển quốc gia, nếu trong phạm vi sau khi thành lập J-League, thì trong lịch sử chỉ mới có 3 người làm được, đó là Lopes Wagner vào năm 1997, Okazaki Shinji vào năm 2015 và tiếp theo là anh.[39]
Tháng 1 năm 2019, anh tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019. Trong trận bán kết với Iran, vào phút 56, khi Minamino đón đường chọc khe của đồng đội, anh đã bị ngã sau pha va chạm với hậu vệ đối phương. Các cầu thủ Iran ngay lập tức đứng lại và chạy đến phân bua với trọng tài rằng đã không có lỗi xảy ra và Minamino chỉ giả vờ ngã. Tuy nhiên, vốn dĩ trọng tài đã không thổi phạt, trận đấu vẫn tiếp tục diễn ra, Minamino nhanh chóng đứng dậy đuổi theo bóng trước khi có đường chuyền chính xác để Osako Yuya mở tỷ số[40]. Ngoài pha kiến tạo nói trên, anh còn kiếm thêm một quả penalty và kiến tạo một bàn nữa, anh đã góp công vào tất cả các bàn thắng của trận đấu. Trong trận chung kết đối đầu với đội tuyển Qatar, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên của mình tại giải đấu, dẫu vậy đội tuyển Nhật Bản đã bị đánh bại với tỉ số 1–3.[41]
Chuyện ngoài lề
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2014, Minamino Takumi đã tham dự "Lễ Thành Nhân của quận Higashisumiyoshi" được tổ chức tại phố mua sắm Komagawa thuộc quận Higashisumiyoshi, Osaka, và đã thử thách kỉ lục Guinness "1 phút high-five (đập tay) liên tục". Anh đã thực hiện high-five với 182 người, vượt qua kỉ lục thế giới 171 người do Danchou Yasuda – thành viên của bộ ba diễn viên hài "Yasuda Dai Circus" – đang nắm giữ, và đã được chứng nhận là kỉ lục thế giới[42]. Tuy nhiên, sau đó ít lâu kỉ lục của Minamino đã bị phá vỡ.
Thống kê câu lạc bộ
CLB Trẻ
- 2004 - 2007 Sessel Kumatori FC
- 2007 - 2009 Cerezo Osaka U-15 (泉佐野市立第三中学校 - Trường THCS Izumisano số 3)
- 2010 - 2012 Cerezo Osaka U-18 (興國高等学校 - Trường THPT Kokoku)
- 2012 Cerezo Osaka (Cầu thủ đăng kí trong đội loại 2)
CLB Chuyên nghiệp
- 2013 - 2014 Cerezo Osaka
- 1/2015 - 2019 FC Red Bull Salzburg
- 1/2020 - Liverpool F.C.
- 2021 - Southampton F.C. (mượn)
Cập nhật lần cuối: 6 tháng 4 năm 2021
Thành tích câu lạc bộ | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp Liên đoàn | Giải đấu quốc tế | Khác | Tổng cộng | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Câu lạc bộ | Mùa giải | Số áo | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Note | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng |
Nhật Bản | J1 League | Cúp Thiên Hoàng | Cúp Liên đoàn | ACL | — | Tổng cộng | |||||||||
Cerezo | 2012 | 34 | 3 | 0 | 2 | 1 | — | — | — | — | 5 | 1 | |||
2013 | 13 | 29 | 5 | 1 | 0 | 8 | 3 | — | 38 | 8 | |||||
2014 | 30 | 2 | 3 | 2 | 2 | 2 | 7 | 2 | 42 | 8 | |||||
Tổng cộng | 62 | 7 | 6 | 3 | 10 | 5 | 7 | 2 | — | 85 | 17 | ||||
Áo | Austrian Bundesliga | Cúp Bóng đá Áo | Cúp Liên đoàn | UEFA Europa League | — | Tổng cộng | |||||||||
FC Red Bull | 2014-15 | 18 | 14 | 3 | 2 | 0 | — | 1 | 0 | EL | — | 17 | 3 | ||
2015-16 | 32 | 10 | 6 | 2 | — | 2 | 1 | EL Play-off | 40 | 13 | |||||
0 | 0 | CL Play-off | |||||||||||||
2016-17 | 21 | 11 | 5 | 3 | — | 4 | 0 | EL | 31 | 14 | |||||
1 | 0 | CL Play-off | |||||||||||||
2017-18 | 28 | 7 | 4 | 1 | — | 1 | 0 | EL Play-off | 44 | 11 | |||||
8 | 2 | EL | |||||||||||||
3 | 1 | CL Play-off | |||||||||||||
2018-19 | 27 | 6 | 5 | 3 | — | 10 | 4 | EL | 45 | 14 | |||||
3 | 1 | CL Play-off | |||||||||||||
2019–20 | 14 | 5 | 2 | 2 | — | 6 | 2 | CL | 22 | 9 | |||||
Tổng cộng | 136 | 42 | 24 | 11 | 39 | 11 | — | 199 | 64 | ||||||
Anh | Ngoại hạng Anh | Cúp FA | Cúp Liên đoàn Anh | UEFA Champions League | Siêu cúp Anh | Tổng cộng | |||||||||
Liverpool F.C. | 2019–20 | 18 | 10 | 0 | 3 | 0 | — | 1 | 0 | — | — | — | 14 | 0 | |
2020–21 | 9 | 1 | 1 | 0 | 2 | 2 | 4 | 0 | 1 | 1 | 17 | 4 | |||
2021–22 | 10 | 2 | 3 | 3 | 5 | 4 | 4 | 0 | 0 | 0 | 22 | 9 | |||
Tổng cộng | 29 | 3 | 7 | 3 | 7 | 6 | 9 | 0 | 1 | 1 | 53 | 13 | |||
Southampton
F.C. (mượn) |
2020–21 | 19 | 10 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | — | — | 10 | 2 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 237 | 54 | 37 | 17 | 17 | 11 | 55 | 13 | 1 | 1 | 347 | 96 |
Thống kê đội tuyển quốc gia
Các giải đấu đã tham dự:
- Đội tuyển U-15 quốc gia
- Đội tuyển U-16 quốc gia
- 2010 - Giải bóng đá quốc tế Montaigu lần thứ 38
- 2010 - AFC U-16 Championship 2010
- Đội tuyển U-17 quốc gia
- 2011 - FIFA U-17 World Cup 2011
- 2012 - Giải bóng đá trẻ quốc tế tại Niigata lần thứ 16
- Đội tuyển U-18 quốc gia
- 2011 - Traditional Winter Tournament Israel 2011
- 2013 - Vòng loại AFC U-19 Championship 2014
- Đội tuyển U-19 quốc gia
- 2014 - U-19 Quốc tế - Nutifood Cup 2014
- 2014 - AFC U-19 Championship 2014
- Đội tuyển U-21 quốc gia
- Đội tuyển U-22 quốc gia
- Đội tuyển U-23 quốc gia
- Đội tuyển quốc gia
- 2014 - FIFA World Cup 2014 (chỉ có trong danh sách đăng kí sơ bộ)
- 2015 - Vòng loại FIFA World Cup 2018 khu vực châu Á (Vòng 2)
- 2018 - Kirin Challenge Cup 2018
- 2019 - AFC Asian Cup 2019
- 2019 - Vòng loại FIFA World Cup 2022 khu vực châu Á (Vòng 2)
Số trận ra sân cho đội tuyển quốc gia
Cập nhật lần cuối: 29 tháng 3 năm 2022 [43]
Đội tuyển quốc gia Nhật Bản | ||
---|---|---|
Năm | Số trận | Bàn thắng |
2015 | 2 | 0 |
2016 | 0 | 0 |
2017 | 0 | 0 |
2018 | 5 | 4 |
2019 | 15 | 7 |
2020 | 4 | 1 |
2021 | 9 | 4 |
2022 | 4 | 1 |
Tổng cộng | 39 | 17 |
Bàn thắng quốc tế cho đội tuyển quốc gia
- Danh sách bàn thắng và kết quả của Nhật Bản xếp trước.[44]
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Tỉ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 11 tháng 9 năm 2018 | Sân vận động Panasonic Suita, Suita, Nhật Bản | Costa Rica | 2–0 | 3–0 | Cúp Kirin 2018 |
2. | 12 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Denka Big Swan, Niigata, Nhật Bản | Panama | 1–0 | 3–0 | |
3. | 16 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Saitama 2002, Saitama, Nhật Bản | Uruguay | 1–0 | 4–3 | |
4. | 4–2 | |||||
5. | 1 tháng 2 năm 2019 | Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed, Abu Dhabi, UAE | Qatar | 1–2 | 1–3 | AFC Asian Cup 2019 |
6. | 5 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động bóng đá Kashima, Kashima, Nhật Bản | Paraguay | 2–0 | 2–0 | Cúp Kirin 2019 |
7. | 10 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động Thuwunna, Yangon, Myanmar | Myanmar | 2–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
8. | 10 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Saitama, Saitama, Nhật Bản | Mông Cổ | 1–0 | 6–0 | |
9. | 15 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Pamir, Dushanbe, Tajikistan | Tajikistan | 1–0 | 3–0 | |
10. | 2–0 | |||||
11. | 14 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Dolen Omurzakov, Bishkek, Kyrgyzstan | Kyrgyzstan | 1–0 | 2–0 | |
12. | 13 tháng 11 năm 2020 | Sân vận động Liebenauer, Graz, Áo | Panama | 1–0 | 1–0 | Giao hữu |
13. | 30 tháng 3 năm 2021 | Fukuda Denshi Arena, Chiba, Nhật Bản | Mông Cổ | 1–0 | 14–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
14. | 28 tháng 5 năm 2021 | Myanmar | 1–0 | 10–0 | ||
15. | 7–0 | |||||
16. | 7 tháng 6 năm 2021 | Sân vận động Panasonic Suita, Suita, Nhật Bản | Tajikistan | 2–1 | 4–1 | |
17. | 1 tháng 2 năm 2022 | Sân vận động Saitama, Saitama, Nhật Bản | Ả Rập Xê Út | 1–0 | 2–0 |
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Cerezo Osaka U-18
- Hạng 1 Takamado Cup U-18: Prince League (khu vực Kansai): 2010
Red Bull Salzburg
- Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo: 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18
- Cúp bóng đá Áo: 2014–15, 2015–16, 2016–17
Liverpool
- Premier League: 2019–20
- FA Cup: 2021–22
- EFL Cup: 2021-22
- Á quân Champions league: 2021-22
Quốc tế
U-23 Nhật Bản
Nhật Bản
- Á quân AFC Asian Cup: 2019
Cá nhân
- Vua phá lưới Giải bóng đá thiếu niên Nhật Bản (U-15) lần thứ 24 (2009)
- Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á: 2010
- Vua phá lưới AFC U-16 Championship: 2010
- Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá trẻ J-League (J Youth Cup) lần thứ 19 (2011)
- Tân binh xuất sắc nhất J.League: 2013
- Cầu thủ xuất sắc nhất Giải U-19 Quốc Tế - Nutifood Cup: 2014
Khác
- Giải thưởng Thể thao chuyên nghiệp Nhật Bản - hạng mục Gương mặt mới: 2013
Tham khảo
- ^ “[日本クラブユース(U-15)選手権]決勝T試合結果&表彰選手一覧”. Web Gekisaka (bằng tiếng Nhật). ngày 30 tháng 8 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Match No.2 JFAプリンスリーグ2010 関西1部”. JFA (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021.
- ^ “2010 Takamado Cup U-18: Prince League (Kansai 1) - Ranking”. Wikipedia tiếng Nhật (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2018.
- ^ “2011 Takamado Cup U-18: Premier League - Score ranking (West)”. Gekisaka (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2019.
- ^ “2011Jユースカップ決勝戦の結果” (bằng tiếng Nhật). Cerezo Osaka. ngày 25 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2019.
“[Jユースカップ]得点ランキング”. Web Gekisaka (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021. - ^ “Phân loại đội bóng ở Nhật Bản - Đội loại 2”. Wikipedia tiếng Nhật (bằng tiếng Nhật).
- ^ “2012 Takamado Cup U-18: Premier League - Score ranking (West)”. Gekisaka (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021.
- ^ “南野、C大阪初の高卒新人開幕スタメン”. Daily Sports (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2019.
- ^ “セレッソ南野 チーム史上最年少弾も...ドローで3連勝逃す”. Sports Nippon (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2019.
- ^ “1G1AのC大阪MF南野「ゲームで使っているような選手と対戦できた」”. Gekisaka (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021.
- ^ “18歳南野鮮烈ゴール!若きC大阪戦士世界と互角”. Sports Nippon (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2019.
- ^ “マンUモイーズ監督「世界ツアーの中で最もいいパフォーマンス」”. Soccer King (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2022.
- ^ a b “背負うものが多すぎた南野拓実。セレッソ大阪、3度目のJ2降格が決定”. Sports Navi (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2019.
- ^ “C大阪が窮地!南野レッド、監督も退席処分...最終戦不在も/ACL”. Sanpo Sports (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2024.
- ^ “柿谷がゴール裏で南野に叱責込めたエール「こんな大事な試合に退場するアホもいますけど...」”. Gekisaka (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 7 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021.
- ^ “TAKUMI MINAMINO INTERVIEW”. FC Red Bull Salzburg. ngày 7 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
- ^ “南野 拓実選手の移籍について” (bằng tiếng Nhật). Cerezo Osaka. ngày 6 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2019.
- ^ “ザルツブルク入団のFW南野拓実、背番号は「18」に決定”. Soccer King (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2019.
- ^ “FC Red Bull Salzburg: Stars sind weg”. Oberösterreichische Nachrichten (bằng tiếng Đức). ngày 13 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Salzburg in Villarreal ohne Minamino”. Kurier (bằng tiếng Đức). ngày 18 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Rapid gewann Schlager gegen Altach – Admira neuer Letzter”. Kleine Zeitung (bằng tiếng Đức). ngày 4 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “南野が見事なゴールで日本代表戦へ向けコンディションの良さをアピールした。”. Goal.com (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2018.
- ^ “南野拓実が今季7ゴール目! 開始6分に先制弾を叩き込む”. Soccer King (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019.
- ^ Bascombe, Chris (ngày 12 tháng 12 năm 2019). “Liverpool agree £7.25m deal for Salzburg forward Takumi Minamino”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ Nalton, James. “Liverpool Swoop For Japanese Star Takumi Minamino”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ Media, P. A. (ngày 18 tháng 12 năm 2019). “Takumi Minamino due for Liverpool medical to seal move from RB Salzburg”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Liverpool transfer news: Takumi Minamino joins Southampton on six-month loan”. Sky Sport. ngày 2 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Takumi Minamino, Japan's lethal weapon”. FIFA.com (bằng tiếng Anh). 29 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2019.
- ^ “U19日本V、南野MVP/国際親善大会”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2019.
- ^ “U-19日本代表 U-19国際フットボールトーナメントNutifood Cup 2014 第3戦結果”. JFA.jp (bằng tiếng Nhật). 12 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2019.
- ^ “山下 達也選手、南野 拓実選手、長谷川 アーリアジャスール選手 日本代表候補トレーニングキャンプ メンバー選出のお知らせ”. Cerezo Osaka Official Site. 3 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2019.
- ^ “南野拓実選手2014FIFAワールドカップブラジル大会 日本代表予備登録メンバー選出のお知らせ”. Cerezo Official Site (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2024.
- ^ “南野PK止められた...U19準々決勝敗退、U20W杯切符逃す”. Sports Nippon (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2023.
- ^ “U19 châu Á 2014: Myanmar vào bán kết, Nhật Bản bị loại trên chấm 11m”. VTV - Đài truyền hình Việt Nam. 17 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ “SAMURAI BLUE(日本代表)メンバー・スケジュール 2018FIFAワールドカップロシア アジア2次予選 兼 AFCアジアカップUAE2019 予選 シリア代表 対 SAMURAI BLUE(日本代表) 【10/8@マスカット/シーブスタジアム】 国際親善試合 イラン代表 対 SAMURAI BLUE(日本代表) 【10/13@テヘラン/アザディスタジアム】”. JFA.jp (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ “代表初ゴールを挙げた南野。「アジアカップまでのサバイバルに勝ち残りたい」”. Football Channel (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ “南野拓実が2戦連発で新エースへ名乗り!「わかりやすい結果を意識していた」”. Gekisaki (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019.
- ^ “3戦連発&2ゴールの南野が明かす先制弾の舞台裏。「翔哉からパスが来るタイミングとか...」”. SOCCERDIGESTWeb (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2024.
- ^ “南野3戦連発!森保ジャパン"不動"のトップ下「またイチからアピール」”. Daily Sports (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ “「森保さんが伝えたかったこと」を体現した南野のファインプレー”. Gekisaka (bằng tiếng Nhật). 29 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Qatar vô địch Asian Cup 2019”. vnexpress. ngày 2 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2019.
- ^ “C大阪・南野 1分間連続ハイタッチでギネス記録認定”. Sports Nippon (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ Japan National Football Team Database Lưu trữ 2019-03-21 tại Wayback Machine(tiếng Nhật)
- ^ “Minamino, Takumi”. National Football Teams. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.