Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng, hay còn gọi là hành chính Đại Việt thời Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam, phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Ngoài - miền Bắc Đại Việt từ sông Gianh trở ra. Trong hai thời kỳ: thời kỳ 1533-1599 và thời kỳ từ 1600 đến khi chính quyền Lê-Trịnh sụp đổ cuối thế kỷ 18, bộ máy hành chính có những thay đổi cơ bản.

Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII.

Thời kỳ đầu là giai đoạn chiến tranh giữa nhà Hậu Lênhà Mạc, họ Trịnh giữ vai trò phụ chính nhưng về chức vụ chỉ là quan đầu triều và chưa trở thành chúa. Từ năm 1600, họ Trịnh được lập phủ chúa, chính thức xưng vương thì bộ máy chính quyền hoàn toàn do họ Trịnh sắp đặt theo mô hình mà về cơ bản là giống thời Lê Sơ, chỉ thay đổi chút ít cho phù hợp với tình hình mới.

Chính quyền trung ương

sửa

Giai đoạn 1533-1599

sửa
Xem thêm: Hành chính Đại Việt thời Lê sơ

Về cơ bản, bộ máy hành chính giai đoạn này dựa theo thời Lê Thánh Tông trước đây. Đầu não là Đại Tư đồ, Đại Tư mã, Đại tư không, Tam thái (Thái sư, thái úy, thái bảo), Tam thiếu (Thiếu sư, thiếu úy, thiếu bảo).

Trong triều đình vẫn có tổ chức Lục bộ là Lại Bộ, Lễ Bộ, Hộ Bộ, Binh Bộ, Hình Bộ, Công bộ. Mỗi bộ có một viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm, Thị lang có hàm Tòng tam phẩm, còn viên Tư vụ ở Vụ tư sảnh chỉ có hàm tòng bát phẩm[1].

Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng. Giúp việc cho Lục bộ là lục tự, gồm Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự.

Về ban võ, chúa Trịnh phỏng theo chế độ của thời Lê sơ. Quân lính chia làm 5 phủ gồm đô đốc phủ: trung quân, bắc quân, nam quân, tây quân, đông quân. Mỗi phủ có chức Tả, Hữu đô đốc, Đồng tri và Thiêm sự.

Giai đoạn 1600-1664

sửa
 
Đại Việt thập niên 1650

Năm 1600, Trịnh Tùng được phong vương, chính thức trở thành chúa. Họ Trịnh được hưởng thế tập ngôi chúa. Từ đây họ Trịnh lập ra hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ chúa tương ứng với chính quyền có sẵn bên cung vua.

Trước tiên, Trịnh Tùng bãi bỏ chức Tả, Hữu thừa tướngBình chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng làm việc Tể tướng. Quyền lực của Tham tụng rất lớn, đều do chúa Trịnh tiến cử từ các viên Thượng thư (tương đương với Bộ trưởng) hoặc Thị lang lên[2].

Năm 1601, Trịnh Tùng đặt thêm chức Bồi tụng đảm đương trọng trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt thêm các Phiên, tương đương với các Bộ bên cung vua. Ban đầu chỉ có 3 Phiên là Bộ phiên, Binh phiên và Thủy sư phiên nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị của chúa Trịnh trong thời kỳ đầu. Tham tụng và Bồi tụng được gọi là quan Phủ liêu.

Tờ tâu lên vua gọi là sớ, tâu lên chúa gọi là khải.

Giai đoạn 1664-1718

sửa
 
Chúa Trịnh thiết triều, do Samuel Baron vẽ năm 1685.

Tuy có Tam phiên nhưng về cơ bản, trong giai đoạn đầu, chức năng nhiệm vụ chủ chốt vẫn ở Lục bộ. Số Thượng thư Lục bộ trong hơn 100 năm đầu thời Lê trung hưng còn thiếu, mãi đến năm 1664, Trịnh Tạc mới đặt đủ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng) cả sáu bộ[2].

Năm 1675, chúa Trịnh Tạc quy định lại một số chức năng của Lục bộ như sau[3]:

  • Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng, xét hạch và thăng giáng quan tước
  • Lễ Bộ: Trông coi việc nghi lễ, tế tự, mừng tiệc yến; học hành thi cử, đúc ấn tín; các chi tiết về mũ áo, chương tấu, việc đi cống, đi sứ, vào chầu. Kiêm coi việc thiên văn, y, bốc (bói toán), sãi, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc.
  • Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và ruộng lộc, thuế muối, sắt.
  • Binh Bộ: Trông coi việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa nghi trượng, khí giới, dịch trạm; đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu có dân tộc thiểu số và ứng phó các việc khẩn cấp;
  • Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, ngục, kiện cáo;
  • Công bộ: Trông coi việc xây dựng thành trì, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền; quản lý núi rừng, sông đầm, vườn tược.

Về cơ bản, Lục bộ vẫn nắm quyền hành khá lớn. Dù đặt ra Tam phiên trực thuộc mình và hoàn toàn chi phối Lục bộ nhưng chúa Trịnh vẫn đóng vai trò người phụ tá cao nhất của vua Lê[4].

Về ban võ, Trịnh Tạc đặt ra chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sựQuyền phủ sự đứng đầu, gọi là quan Ngũ phủ. Họ có nhiệm vụ bàn định các việc trong phủ và tra xét các tờ khải tâu lên. Những người đảm nhận chức vụ này đều là công thần hoặc thân thuộc.

Từ 1718

sửa

Năm 1718, chúa Trịnh Cương lập ra đủ Lục phiên ở phủ chúa: Ngoài Binh phiênHộ phiên đặt từ trước, tới lúc đó đặt thêm Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, tương đương 6 Bộ của triều đình vua Lê (Thủy sư phiên thuộc về Binh phiên). Kể từ lúc này, toàn bộ việc tiền tài, thuế khóa, việc quân, việc dân đều thuộc cả về các phiên ty[4].

Việc thuế khóa trước kia do 46 hiệu đứng ra thu thì Trịnh Cương gộp cả vào trong 6 cung trực thuộc 6 phiên: Cung tả trưng, Cung hữu trưng, Cung Đông, Cung Nam, Cung Đoài, Cung Bắc.

Đứng đầu các Phiên là Tri phiên (tương đương với Thượng thư bên Lục bộ), Phó tri phiên (tương đương Thị lang), Thiêm tri phiên, Nội sai và Lại phiên cùng thuộc lại tất cả 60 người. Phẩm hàm của các quan lại bên Phiên thì Tri phiên tương đương Thượng thư, Phó tri phiên tương đương Thị Lang, còn các chức khác tương đương đều kém bên Lục bộ 1-2 bậc.

Thực quyền

sửa

Quá trình lập ra Ngũ phủ (ban võ) và Phủ liêu (Ban văn) cùng các cơ quan giúp việc (Lục phiên) là một quá trình thâu tóm quyền hành từ cung vua về phủ chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư hàm làm nhiệm vụ nghi thức.

Về danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng vương và đứng đầu Ngũ phủ, Phủ liêu nhưng trên thực tế lại nắm hết quyền điều hành việc nước.

Các nhà sử học đánh giá, việc lập thêm các cơ quan giúp việc cho phủ chúa thực chất chuyển quyền hành cho chúa Trịnh và làm cồng kềnh thêm bộ máy chính quyền[5].

Chính quyền địa phương

sửa

Các đơn vị hành chính

sửa
 
Bản đồ Đại Việt quốc tổng lãm đồ (大越國總覽圖) thời nhà Lê-Trịnh.

Hệ thống chính quyền địa phương thời Lê trung hưng chủ yếu vẫn như thời Lê Thánh Tông: trong nước chia thành các trấn, phủ, huyện, châu và xã.

Tổng cộng cả nước Đại Việt có 13 trấn và 1 phủ Phụng Thiên (奉天) trực thuộc kinh thành Thăng Long, trong đó Đàng Ngoài có 11 trấn (Hai trấn Quảng Nam, Thuận HóaĐàng Trong trong tay chúa Nguyễn), gồm có:

Ban đầu, chúa Trịnh cho đổi các đạo trong nước làm trấn và phân biệt nội trấn với ngoại trấn. Nội trấn là các trấn đồng bằng (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc) còn ngoại trấn là những nơi xa (Lạng Sơn, Hưng Hóa, Ninh Sóc, Tuyên Quang, An Quảng). Riêng 2 trấn Thanh Hoa và Nghệ An vẫn giữ nguyên. Khi thắng được họ Mạc lại đặt thêm trấn Cao Bình và đến cuối thời Lê trung hưng lại tách Sơn Nam và Thanh Hóa làm 2, nâng tổng số đơn vị hành chính Đàng Ngoài thành 15.

Cụ thể về các đơn vị hành chính thời Lê trung hưng như sau:

Phụng Thiên

sửa

Ngoài kinh thành gồm có 2 huyện phụ quách Quảng Đức (廣德) và Thọ Xương (壽昌),

Sơn Nam thượng

sửa

Trấn Sơn Nam (山南) từ thời Lê Hiển Tông tách ra làm lộ Sơn Nam thượng (山南上) (tức Hà Đông cũ, Hưng YênHà Nam hiện nay) và lộ Sơn Nam hạ (tức Nam ĐịnhThái Bình hiện nay). Gồm có[6]:

  • Phủ Thường Tín (常信): gồm các huyện Thanh Trì (青池) (Thanh Trì, Hà Nội hiện nay), Thượng Phúc (上福) (Thường Tín, Hà Nội hiện nay), Phú Nguyên (Phú Xuyên, 富川) (tức huyện Phú Xuyên, Hà Nội)
  • Phủ Ứng Thiên (應天), gồm có các huyện: Thanh Oai (青歪) (tức huyện Thanh Oai, Hà Nội), Chương Đức (鄣德) (tức huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Sơn Minh (山明) (tức huyện Ứng Hòa, Hà Tây cũ - Hà Nội hiện nay), Hoài An (懷安) (phần nam huyện Ứng Hòa và một phần huyện Mỹ Đức, Hà Nội).
  • Phủ Lị Nhân (莅仁): tương đương tỉnh Hà Nam hiện nay; gồm các huyện: Nam Xang (南昌) (huyện Lý Nhân , Hà Nam hiện nay), Kim Bảng (金榜) (Kim Bảng hiện nay), Duy Tiên (維先) (Duy Tiên hiện nay), Thanh Liêm (清廉) (Thanh Liêm hiện nay), Bình Lục (平陸) (Bình Lục hiện nay).
  • Phủ Khoái Châu (快州): gồm các huyện Đông Yên (東安) (nay là huyện Khoái Châu thuộc Hưng Yên), Kim Động (金洞) (Kim Động hiện nay), Tiên Lữ (仙侶) (Tiên Lữ hiện nay), Thiên Thi (天施) (Ân Thi hiện nay), Phù Dung (芙蓉) (Phù Cừ hiện nay).

Sơn Nam hạ

sửa

Lộ Sơn Nam hạ (山南下) tách ra từ thời Lê Hiển Tông, gồm các phủ:

Kinh Bắc

sửa

Trấn Kinh Bắc (京北) gồm có các phủ[7]:

  • Phủ Từ Sơn (慈山) gồm các huyện Đông Ngàn (東岸) (huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh và huyện Kim Anh của tỉnh Phúc Yên cũ, tức là một phần huyện Sóc Sơn, Hà Nội hiện nay), Yên Phong (安豐) (Yên Phong hiện nay), Tiên Du (仙逾) (Tiên Du hiện nay), Võ Giàng (武江) (một phần Quế Võ hiện nay), Quế Dương (桂楊) (một phần Quế Võ hiện nay).
  • Phủ Thuận An (順安) gồm các huyện: Gia Lâm (嘉林) (Gia Lâm hiện nay), Siêu Loại (超類) (Thuận Thành hiện nay), Văn Giang (文江) (Văn Giang hiện nay), Gia Định (嘉定) (Gia Bình hiện nay), Lương Tài (良才).
  • Phủ Bắc Hà (北河) gồm các huyện: Tân Phúc (Tiên Phúc (先福)) (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Kim Hoa (金華) (một phần Sóc Sơn hiện nay), Hiệp Hòa (洽和) (Hiệp Hòa hiện nay), Yên Việt (安越) (Việt Yên hiện nay).
  • Phủ Lạng Giang (諒江) gồm các huyện Phượng Nhãn (鳳眼) (một phần Yên Dũng hiện nay), Yên Dũng (安勇) (vốn sáp nhập từ hai huyện Yên Ninh (安寧) và Cổ Dũng đời nhà Hồ), Hữu Lũng (右隴) (Hữu Lũng hiện nay), Bảo Lộc (保祿) (Lạng Giang hiện nay), Yên Thế (安世) (Yên ThếTân Yên hiện nay), Lục Ngạn (陸岸) (Lục Ngạn hiện nay).

Sơn Tây

sửa

Trấn Sơn Tây (山西) gồm các phủ[8]:

  • Phủ Quốc Oai (國威) gồm các huyện: Từ Liêm (慈廉) (Từ Liêm hiện nay), Thạch Thất (石室) (Thạch Thất hiện nay), Đan Phượng (丹鳳) (Đan Phượng hiện nay), Mỹ Lương (美良) (Mỹ Đức, Hà Nội và Lương Sơn, Hòa Bình hiện nay), Phúc Lộc (福祿) (Phúc Thọ hiện nay)
  • Phủ Tam Đới (三帶) gồm có các huyện: Yên Lãng (安朗) (Yên Lãng hiện nay), Yên Lạc (安樂) (Yên Lạc hiện nay), Bạch Hạc (白鶴) (Vĩnh Tường hiện nay), Lập Thạch (立石) (Lập Thạch hiện nay), Phù Khang (扶康, là tên gọi trong giai đoạn Lê trung hưng 1592-1788) (Phù Ninh hiện nay)
  • Phủ Thao Giang (洮江) gồm các huyện Sơn Vi (山闈) (Lâm Thao hiện nay), Thanh Ba (青波) (Thanh Ba hiện nay), Hoa Khê (華溪) (Cẩm Khê hiện nay), Hạ Hoa (夏華) (Hạ Hòa hiện nay), Tam Nông (三農) (Tam Nông hiện nay).
  • Phủ Đoan Hùng (端雄) gồm các huyện: Đông Quan (東關, nguyên là huyện Đông Lan (東蘭) trước năm 1498 thời Lê sơ) (tương đương khu vực ngã ba sông Lôsông Chảy hiện nay), Tây Quan (西關, nguyên là huyện Tây Lan (西蘭) trước năm 1498 thời Lê sơ) (hữu ngạn sông Lô cạnh Phù Ninh hiện nay), Sơn Dương (山陽) (Sơn Dương thuộc Tuyên Quang hiện nay), Đương Đạo (當道) (đông bắc Sơn Dương hiện nay), Tam Dương (三陽) (Tam Dương, Vĩnh Phúc hiện nay)
  • Phủ Quảng Oai (廣威) gồm các huyện Minh Nghĩa (明義) (tức thị xã Sơn Tây và một phần Ba Vì hiện nay), Tân Phong (Tiên Phong (先豊), đổi tên năm 1600) (một phần Ba Vì hiện nay). Sau những năm 1705-1720 (niên hiệu Vĩnh Thịnh), phủ Quảng Oai sáp nhập thêm huyện Bất Bạt (不拔) từ phủ Đà Giang.
  • Phủ Đà Giang (沱江) (tồn tại đến những năm 1705, trước gồm hai huyện Tam Nông và Bất Bạt).

Hải Dương

sửa

Trấn Hải Dương (海陽) gồm các phủ[9]:

  • Phủ Thượng Hồng (上洪) gồm các huyện: Đường Hào (唐豪) (Mỹ Hào hiện nay), Đường Yên (唐安) (Bình Giang hiện nay), Cẩm Giàng (錦江) (Cẩm Giàng hiện nay).
  • Phủ Hạ Hồng (下洪) gồm các huyệnː Gia Phúc (嘉福), Thanh Miện (青沔) (Thanh Miện hiện nay), Tứ Kỳ (四岐, Tứ Kỳ hiện nay), Vĩnh Lại (永賴) (Vĩnh Bảo, Hải Phòng hiện nay).
  • Phủ Nam Sách gồm các huyện: Thanh Lâm (青林) (Nam Sách hiện nay), Chí Linh (至灵) (Chí Linh hiện nay), Thanh Hà (青河, nguyên là Bình Hà (平河) trước năm 1600) (Thanh Hà hiện nay), Tiên Minh (Tân Minh (新明) trước năm 1600) (Tiên Lãng, Hải Phòng hiện nay).
  • Phủ Kinh Môn (荊門) gồm các huyện: Giáp Sơn (夹山) (Kinh Môn hiện nay), Đông Triều (東潮) (Đông Triều hiện nay), An Lão (安老) (An Lão hiện nay), Nghi Dương (宜陽) (Kiến Thụy hiện nay), Kim Thành (Kim Thành hiện nay), Thủy Đường (水棠) (Thủy Nguyên hiện nay), An Dương (安陽) (An Dương hiện nay).

An Quảng

sửa

Trấn An Quảng, trước năm 1600 có tên là trấn An Bang (安邦), gồm có 1 phủ[10]:

  • Phủ Hải Đông (海東) gồm các huyện: Hoành Bồ (橫蒲) (Hoành Bồ hiện nay), Yên Hưng (安興) (Yên Hưng hiện nay), Hoa Phong (花封) (Cát Hải hiện nay) và các châu: Tiên Yên (先安州) (huyện Tiên Yên hiện nay), Vạn Ninh (萬寧) (Móng Cái hiện nay), Vĩnh An (永安州) (thuộc Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay), Vân Đồn (雲吨) (cù lao Lợn Lòi phía đông vịnh Bái Tử Long).

Lạng Sơn

sửa

Trấn Lạng Sơn (諒山) gồm 1 phủ[11]:

Thái Nguyên

sửa

Trấn Thái Nguyên (thời Lê sơ từng là Ninh Sóc (寧朔)) gồm các phủ[12]:

Cao Bình

sửa

Từ năm 1677 sau khi dẹp họ Mạc cát cứ, lập ra trấn Cao Bình (高平) (tương đương tỉnh Cao Bằng hiện nay), gồm các châu: Thạch Lâm (石林) (Hòa An, Nguyên Bình và Thạch An hiện nay), Quảng Uyên (Nguyên) (廣源) (Quảng Uyên và Phục Hòa hiện nay), Thượng Lang (上琅) (Trà Lĩnh và Trùng Khánh hiện nay), Hạ Lang (下琅) (Hạ Lang hiện nay).

Tuyên Quang

sửa

Trấn Tuyên Quang (宣光, có thời gọi là Minh Quang (明光), thời chúa Bầu cát cứ gọi là dinh An Tây (An Tây thừa tuyên, 安西丞揎) gồm có 1 phủ[13]:

Hưng Hóa

sửa
 
Bản đồ Phủ An Tây trấn Hưng Hóa của Đại Việt thời Hậu Lê cho đến giữa thế kỷ 17.
 
Bản đồ châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa nước Đại Việt thời Hậu Lê cho đến gữa thế kỷ 17.

Trấn Hưng Hóa (興化) gồm các phủ[12]:

 
Ức Trai di tập, Quyển 6 trang 15-18, địa dư chí viết về Hưng Hóa và Tuyên Quang.

Thanh Hoa ngoại

sửa

Gồm các phủ:

  • Phủ Trường Yên (長安) (đông Ninh Bình hiện nay) gồm các huyện: Gia Viễn (嘉遠) (Gia Viễn hiện nay), Yên Mô (安謨) (Yên Mô hiện nay), Yên Khang (nguyên là Yên Ninh (安寧)) (Yên Khánh hiện nay).
  • Phủ Thiên Quan (天關) (tây Ninh Bình hiện nay) gồm các huyện Phụng Hóa (奉化) (Nho Quan hiện nay), Yên Hoá (安化) (tây Gia Viễn hiện nay), Lạc Thổ (樂土) (huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình hiện nay).

Thanh Hoa nội

sửa

Trấn Thanh Hoa nội (清華) gồm các phủ[14]:

Xứ Nghệ An (乂安) tương đương hai tỉnh Nghệ AnHà Tĩnh hiện nay, gồm các phủ:[17]

Bộ máy chính quyền địa phương

sửa

Cơ quan cấp trấn

sửa

Đứng đầu các trấn là các cơ quan Trấn ty, Thừa ty và Hiến ty. Trấn ty có nhiệm vụ như Đô ty thời Lê Thánh Tông, là giữ binh quyền và phụ trách tuần phòng địa phương.

Đứng đầu cơ quan Trấn ty là quan Trấn thủ, Đốc trấnLưu thủ. Các trấn gần thì đặt chức Trấn thủ nhưng các trấn xa thì đặt chức Đốc trấn; với Thanh Hoa là đất căn bản thì đặt chức Lưu thủ. Tuy tên gọi khác nhau nhưng thực chất nhiệm vụ thì như nhau. Chức quan trấn thủ ở địa phương là quan trọng nhất nên các chúa Trịnh chỉ dùng người thân thích và tin cậy vào chức vụ này[20].

Sang thời Trịnh Cương đặt thêm chức Tuần thủ ở các trấn để đi tuần phòng. Đến thời Trịnh Giang đổi gọi các chức Lưu thủ, Trấn thủ, Đốc trấn thành Đốc phủ. Ngoài ra tại các trấn còn có chức Đốc đồng (coi việc kiện cáo); tại trấn lớn như Nghệ An đặt thêm chức Đốc thị coi việc biên cương, lấy cả quan văn vào làm[20].

Nhiệm vụ của Thừa tyHiến ty như thời Lê sơ: Thừa ty trông coi hành chính (hộ tịch, ruộng thóc, kiện tụng), Hiến ty lo việc tư pháp (tuần hành, khảo khóa, khám xét, xét hỏi, hội đồng kiểm soát).

Cơ quan cấp xã

sửa

Ở cấp , sau nhiều năm loạn lạc, các chúa Trịnh có quan tâm củng cố chút ít bộ máy cấp xã, nhưng thực chất vẫn lỏng lẻo không quản lý được sát sao như thời Lê Sơ[21].

Sang niên hiệu Cảnh Trị thời Lê Huyền Tông (1663-1672), chúa Trịnh Tạc đề ra quy định khảo xét Xã trưởng 3 năm 1 lần; những ai có thành tích được thăng làm quan huyện.

Sau khi Trịnh Cương mất (1729), chính sự thời Trịnh Giang suy đồi, phép khảo xét định kỳ đối với Xã trưởng không thực hiện. Bộ máy cấp xã dần dần thêm lỏng lẻo, chức Xã trưởng cũng không được coi trọng. Sang thời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), Trịnh Giang để cho nhân dân địa phương hoàn toàn tự quyết việc lập Xã trưởng. Chính quyền càng ngày càng không quản lý nổi địa bàn cấp xã, thôn[21].

Việc để mất lãnh thổ phía bắc sang Trung Quốc trong các thế kỷ 17, 18

sửa

Việc để mất 6-7 châu (các châuː Hợp Phì, Tung Lăng (còn gọi là Cao Lăng), Quảng Lăng, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Lễ Tuyền và Khiêm) thuộc phủ An Tây trấn Hưng Hóa vào khoảng giữa thế kỷ 17, thường được các sử quan triều đình vua Lê - chúa Trịnh chép trong chính sử nhà Lê trung hưng là do Hoàng Công Toản con trai Hoàng Công Chất sau khi bị quân triều đình đánh dẹp, chạy sang Vân Nam Trung Quốc và dâng các đất đai vùng tây bắc Đại Việt này cho nhà Thanh.

 
Ức Trai di tập, Quyển 6 trang 15-18, địa dư chí viết về Hưng Hóa và Tuyên Quang.
 
Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688.

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ Viện sử học, sách đã dẫn, tập 4, tr 71
  2. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 77
  3. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 78
  4. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 79
  5. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 84
  6. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 174-179
  7. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 179-180
  8. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 181-183
  9. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 183-185
  10. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 186
  11. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 187
  12. ^ a b Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 191-192
  13. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 190-191
  14. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 193-196
  15. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 195
  16. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 196
  17. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 196-198
  18. ^ Đại Việt địa dư toàn biên, quyển 3, bản chữ Hán.
  19. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển 26, trang 255.
  20. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 87
  21. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 88