I-38 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham gia hoạt động trong các Chiến dịch New Guinea, quần đảo Solomon, và quần đảo Mariana, trước khi bị mất tích vào tháng 11, 1944, có thể bị tàu khu trục Hoa Kỳ USS Nicholas đánh chìm gần Palau vào ngày 13 tháng 11, 1944.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 151
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo
Đặt lườn 19 tháng 6, 1941
Đổi tên I-38, 1 tháng 11, 1941
Hạ thủy 15 tháng 4, 1942
Hoàn thành 31 tháng 1, 1943
Nhập biên chế 31 tháng 1, 1943
Xóa đăng bạ 10 tháng 3, 1945
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-38 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 151 tại Xưởng vũ khí Hải quân SaseboSasebo vào ngày 19 tháng 6, 1941.[6][7] Nó được đổi tên thành I-38 vào ngày 1 tháng 11, 1941,[6] rồi được hạ thủy vào ngày 15 tháng 4, 1940.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 1, 1943,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Ankyu Eitaro.[6][7]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-38 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure, và được phân về Hải đội Tàu ngầm Kure.[7] Nó lên đường ngay trong ngày hôm đó để thử nghiệm một kiểu ngư lôi mới hoạt động ở vùng nước nông trong biển nội địa Seto.[7] Sau đó nó tham gia thử nghiệm sà lan Unpoto, một kiểu bè trượt dài 70 ft (21 m) có khả năng chở 15 tấn hàng hóa, thường được bố trí ba khẩu lựu pháo Type 96 15 cm cùng đạn dược kèm theo;[7] I-38 trở thành tàu ngầm đầu tiên được lắp bộ gá để mang theo sà lan Unpoto trên boong tàu.[7] Sau đó nó tham gia thực hành ngư lôi cùng các tàu ngầm I-37, Ro-104Ro-105 vào ngày 26 tháng 3.[8] Đến ngày 1 tháng 4, I-38 được điều về Hải đội Tàu ngầm 11.[6][7]

Hoàn tất việc trang bị và huấn luyện, I-38 được điều động sang Đội tàu ngầm 15 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, một đơn vị trực thuộc Đệ Lục hạm đội trong thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 30 tháng 4.[6][7] Nó khởi hành từ Kure vào ngày 8 tháng 5, mang theo sà lan Unpoto trên boong tàu để đi sang khu vực Tây Nam Thái Bình Dương.[7] Sau khi đi đến căn cứ Truk thuộc quần đảo Caroline vào ngày 14 tháng 5, chiếc tàu ngầm cùng sà lan Unpoto được Phó đô đốc Komatsu Teruhisa, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội thị sát vào ngày hôm sau,[7] trước khi được điều động sang Hạm đội Khu vực Tây Nam.[7] Nó khởi hành vào ngày 16 tháng 5 để đi sang căn cứ Rabaul trên đảo New Britain, đến nơi vào ngày 18 tháng 5.[7]

Chiến dịch New Guinea

sửa

Được giao nhiệm vụ vận chuyển hàng tiếp liệu đến New Guinea nhằm hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang chiến đấu tại đây trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea, I-38 xuất phát từ Rabaul vào ngày 21 tháng 5 với 12 hành khách là sĩ quan hải quân trên tàu cùng với hơn 48 tấn đạn dược và tiếp liệu.[7] Nó hướng đến Lae tại bờ biển phía Bắc New Guinea, đến nơi vào ngày 23 tháng 5, nhanh chóng tiễn hành khách và chất dỡ hàng hóa rồi đón lên tàu 17 thương binh và bệnh binh Lục quân để di tản họ về Rabaul.[7] Không lâu sau khi rời Lae, chiếc tàu ngầm bị một xuồng tuần tra phóng lôi PT-boat Hoa Kỳ phát hiện và tấn công với tổng cộng sáu quả ngư lôi được phóng ra, nhưng tất cả đều bị trượt.[7] I-38 về đến Rabaul an toàn vào ngày 25 tháng 5.[7]

Bị mất

sửa

Vào ngày 12 tháng 11, 1944, tàu khu trục Hoa Kỳ USS Nicholas, vốn đang cùng tàu khu trục USS Taylor hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ USS St. Louis trong hành trình từ Ulithi đến Kossol Roads thuộc Palau, khi nó phát hiện một mục tiêu trên mặt nước qua radar ở khoảng cách 22.000 yd (20.000 m) lúc 20 giờ 03 phút.[7] Nó tiếp cận mục tiêu và bắt đầu nả pháo 5 inch (127 mm) điều khiển bằng radar, nhưng mục tiêu biến mất khỏi màn hình, xác nhận đó là một tàu ngầm vừa lặn xuống.[7] Đến khoảng 22 giờ 30 phút, nó dò được tín hiệu sonar, và đã thả một loạt 18 quả mìn sâu để tấn công, và sau đó mất dấu mục tiêu.[7] Khi dò lại được tín hiệu sonar của đối thủ lúc 00 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11, Nicholas lại tiếp cận để chuẩn bị tiếp tục tấn công.[7] Khi sonar nhận ra mục tiêu cơ động sang mạn trái để né tránh, chiếc tàu khu trục bẻ lái hết sang mạn trái bằng cách chạy lùi trục chân vịt bên mạn phải, nên gần như ngay bên trên chiếc chiếc tàu ngầm, và một loạt mìn sâu được thả xuống.[7] Vài phút sau loạt mìn cuối cùng, một vụ nổ dữ dội dưới nước xảy ra tại tọa độ 08°04′B 138°03′Đ / 8,067°B 138,05°Đ / 8.067; 138.050.[7] Đến sáng, mảnh vỡ và xác người được tìm thấy tại khu vực, xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị tiêu diệt, rất có thể đó là I-38.[7]

Đến ngày 13 tháng 11, I-38 đã không gửi báo cáo theo thường lệ về Bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội. Vào ngày 6 tháng 12, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-38 có thể đã bị mất với tổn thất toàn bộ 110 thành viên trên tàu tại khu vực Palau.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.[6][7]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g h “I-38 ex No-151”. ijnsubsite.info. 17 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-38: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
  8. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2010). “IJN Submarine I-37: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa