I-36 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng tham gia hoạt động trong các Chiến dịch Guadalcanal, quần đảo Aleut, New Guinea quần đảo Marshall, rồi cuối cùng như một tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten tại khu vực biển Philippine. I-36 là chiếc duy nhất trong lớp của nó sống sót qua cuộc chiến tranh, đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào tháng 9, 1945, và cuối cùng bị đánh chìm ngoài khơi quần đảo Goto vào tháng 4, 1946 trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 149
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka
Đặt lườn 4 tháng 12, 1940
Đổi tên I-47, 22 tháng 10, 1941
Hạ thủy 1 tháng 11, 1941
Đổi tên I-36, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 30 tháng 9, 1942
Nhập biên chế 30 tháng 9, 1942
Xóa đăng bạ 30 tháng 10, 1945
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-36 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 149 tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 4 tháng 12, 1940.[6][7] Nó được đổi tên thành I-47 vào ngày 22 tháng 10, 1941,[6][7] rồi được hạ thủy đồng thời đổi tên thành I-36 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 30 tháng 9, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Inaba Michimune.[6]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-36 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure, và được phân về Hải đội Tàu ngầm Kure.[7] Nó di chuyển đến vịnh Agenosho để hoạt động chạy thử máy và huấn luyện trong biển nội địa Seto,[7] và sau khi hoàn tất, nó đi đến Kure, Hiroshima vào ngày 30 tháng 11, 1942.[7] Đến ngày 15 tháng 12, I-36 được điều động sang Đội tàu ngầm 15 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, một đơn vị trực thuộc Đệ Lục hạm đội trong thành phần Hạm đội Liên hợp, cùng với các tàu ngầm chị em I-34I-35.[7] Nó khởi hành từ Kure vào ngày 18 tháng 12 để đi sang khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, đi đến căn cứ Truk thuộc quần đảo Caroline vào ngày 28 tháng 12.[7]

Chiến dịch Guadalcanal

sửa

Được giao nhiệm vụ vận chuyển hàng tiếp liệu cho lực lượng Nhật Bản đang chiến đấu tại Guadalcanal trong khuôn khổ Chiến dịch Guadalcanal, I-36 khởi hành ngay khi vừa đến Truk,[7] đi đến khu vực neo đậu tại quần đảo Shortland vào ngày 31 tháng 12, 1942.[7] Nó chất lên tàu 20 tấn gạo chứa trong các thùng cao su, rồi lặn thử nghiệm ngoài khơi Shortland trước khi lên đường lúc 18 giờ 00 để hướng đến Guadalcanal.[7] Đến chiều tối ngày 3 tháng 1, 1943, nó trồi lên mặt nước ngoài khơi vịnh Kamimbo, Guadalcanal, chất dỡ số hàng hóa lên bốn xuồng đổ bộ lớp Daihatsu[7] trước khi lên đường quay trở lại Shortland, đến nơi vào ngày 5 tháng 1.[7]

I-36 lại khởi hành từ Shortland vào ngày 6 tháng 1 cho một chuyến đi tiếp liệu khác sang Guadalcanal, đi đến ngoài khơi vịnh Kamimbo lúc chiều tối ngày 8 tháng 1. Sau khi cho chất dỡ 12 thùng cao su chứa lương thực lên các xuồng Daihatsu, nó đón lên tàu 39 binh lính Lục quân cho hành trình quay trở về, đi đến Shortland vào sáng ngày 10 tháng 1.[7] Nó lên đường ngay trong ngày hôm đó để đi đến căn cứ Rabaul trên đảo New Britain, đến nơi vào ngày hôm sau 11 tháng 1.[7]

Chiến dịch New Guinea

sửa

Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 1 phân công cho I-36 nhiệm vụ vận chuyển hàng tiếp liệu đến Buna tại bở biển phía Đông Bắc New Guinea, hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang chiến đấu tại đây trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea.[7] Vì vây chiếc tàu ngầm rời Rabaul vào ngày 14 tháng 1 cho chuyến đi tiếp liệu đầu tiên, đi đến ngoài khơi cửa sông Mambare tại Buna vào ngày 17 tháng 1. Sau khi cho chất dỡ hàng tiếp liệu và đón lên tàu 47 binh lính, nó trở ra khơi và về đến Rabaul vào ngày 18 tháng 1.[7] I-36 lại rời Rabaul vào ngày 22 tháng 1 cho chuyến đi tiếp liệu thứ hai, đi đến khu vực cửa sông Mambare vào ngày 24 tháng 1, nơi nó chất dỡ 13 thùng hàng tiếp liệu và đón lên tàu 39 binh lính, rồi về đến Rabaul vào ngày 27 tháng 1.[7] Trong chuyến đi tiếp liệu tiếp theo, nó đi đến khu vực cửa sông Mambare vào ngày 30 tháng 1, chuyển giao 23 tấn tiếp liệu và giúp triệt thoái 59 binh lính.[7]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e “I-36 ex I-47 ex No-149”. ijnsubsite.info. 15 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-36: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa