I-37 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai.[3] Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện ba chuyến tuần tra trong Ấn Độ Dương, nơi thủy thủ đoàn phạm tội ác chiến tranh khi giết hại những người sống sót trên các con tàu bị đánh chìm. Sau khi được cải biến thành một tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten, I-37 bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS ConklinUSS McCoy Reynolds đánh chìm tại Palau vào ngày 19 tháng 11, 1944.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 150
Đặt hàng 1939
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 7 tháng 12, 1940
Hạ thủy 22 tháng 10, 1941
Đổi tên I-49, 22 tháng 10, 1941
Đổi tên I-37, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 10 tháng 3, 1943
Nhập biên chế 10 tháng 3, 1943
Xóa đăng bạ 10 tháng 3, 1945
Số phận Bị các tàu hộ tống khu trục USS ConklinUSS McCoy Reynolds đánh chìm tại Palau, 19 tháng 11, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[4] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[6] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo

sửa

I-37 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 150 tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 7 tháng 12, 1940.[7][8] Nó được đổi tên thành I-49 đồng thời được hạ thủy vào ngày 22 tháng 10, 1941,[7][8] rồi đổi tên thành I-37 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[7][8] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 10 tháng 3, 1943,[7][8] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Otani Kiyonori.[7]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-37 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure, và được phân về Hải đội Tàu ngầm Kure.[8] Nó di chuyển qua Iyo Nada vào ngày 13 tháng 3 để hoạt động chạy thử máy và huấn luyện trong biển nội địa Seto,[8] rồi thực hành ngư lôi cùng các tàu ngầm I-38, Ro-104Ro-105 vào ngày 26 tháng 3.[8] Đến ngày 1 tháng 4, nó được điều về Đội tàu ngầm 11,[8] và sang ngày hôm sau đã đi đến Kure để sửa chữa kính tiềm vọng và ăn-ten vô tuyến sóng ngắn.[8] Sau khi hoàn tất vào tháng 5, nó tham gia thử nghiệm thùng chứa hàng Unkato trong biển nội địa Seto, một thùng chứa ngằm dài 135 ft (41 m) có thể chứa 377 tấn hàng tiếp liệu, được thiết kế để vận chuyển hàng hóa một chiều.[9] Cùng trong tháng 5, I-37 cũng được trang bị radar Type 22.[8]

Hoàn tất việc trang bị và huấn luyện, I-37 được điều động sang Đội tàu ngầm 14 thuộc Hải đội Tàu ngầm 8, một đơn vị trực thuộc Đệ Lục hạm đội trong thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 23 tháng 5.[7][8] Nó khởi hành từ Kure vào ngày 25 tháng 5 để đi sang căn cứ hoạt động tại PenangMalaya thuộc Anh bị Nhật Bản chiếm đóng, đến nơi vào ngày 4 tháng 6.[8]

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Bị mất

sửa

Lúc 08 giờ 58 phút ngày 19 tháng 11, tàu rải lưới Hoa Kỳ USS Winterberry đang rải lưới chống ngư lôi ngang qua lối ra vào phía Tây của Kossol Roads, khi nó phát hiện I-37 ngoài khơi lối ra vào khu vực neo đậu. Chiếc tàu ngầm lặn xuống nước nhưng trồi lên mặt nước ở góc cao trước khi lặn xuống lần thứ hai.[8] Winterberry báo cáo sự việc, và tàu quét mìn USS YMS-33 tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy chiếc tàu ngầm.[8] Đến 09 giờ 15 phút, các tàu hộ tống khu trục USS ConklinUSS McCoy Reynolds được lệnh truy tìm và tiêu diệt tàu ngầm đối phương, dưới sự trợ giúp của máy bay hải quân xuất phát từ Peleliu gần đó.[8]

Lúc khoảng 15 giờ 04 phút, cả Conklin lẫn McCoy Reynolds đều dò được tín hiệu sonar của tàu ngầm đối phương, và đến 15 giờ 39 phút, McCoy Reynolds bắt đầu đợt tấn công đầu tiên bằng hai loạt súng cối chống ngầm Hedgehog.[8] I-37 lặn xuống đến độ sâu 350 ft (110 m) và cơ động ẩn nấp.[8] McCoy Reynolds bắn thêm hai loạt Hedgehog nữa trước khi mất tín hiệu sonar, buộc I-37 phải lặn sâu đến 400 ft (120 m).[8] Conklin dò được tín hiệu sonar mục tiêu lúc 16 giờ 03 phút, và bắn loạt Hedgehog đầu tiên của nó lúc 16 giờ 15 phút;[8] chỉ 25 giây sau đó, nó nghe thấy một vụ nổ dưới nước.[8] Nó bắn tiếp loạt Hedgehog thứ hai mười phút sau đó, và nghe được một tiếng nổ sau 28 giây.[8] Cho dù bị bắn trúng hai quả đạn cối, I-37 vẫn kiên trì cơ động ẩn nấp và né tránh được loạt Hedgehog thứ ba của Conklin.[8]

Đến 16 giờ 45 phút, McCoy Reynolds thả một loạt 12 quả mìn sâu được cài đặt kích hoạt ở độ sâu 450 ft (140 m).[8] Thủy thủ của McCoy Reynolds trông thấy một bọt khí đường kính 25 ft (7,6 m) trồi lên mặt nước, và sau đó là một vụ nổ lớn.[8] Nó mất tín hiệu sonar mục tiêu cho đến 17 giờ 00, khi dò lại được tín hiệu sonar của mục tiêu, và nghe thấy một vụ nổ dữ dội gây chấn động McCoy Reynolds, tạm thời làm hỏng dàn sonar của nó.[8] Một bọt khí lớn trồi lên mặt nước lúc 17 giờ 01 phút tại tọa độ 08°07′B 134°16′Đ / 8,117°B 134,267°Đ / 8.117; 134.267,[8] tiếp theo sau là nhiều vụ nổ nhỏ, và cả hai chiếc tàu hộ tống khu trục đều mất dấu mục tiêu.[8] Mảnh vỡ gỗ lát sàn tàu và dầu diesel bắt đầu trồi lên mặt biển khắp trên một khu vực rộng, nhiều mảnh gỗ và thùng chứa dụng cụ mang ký tự tiếng Nhật, và một vệt dầu loang lan rộng trên nhiều dặm, xác nhận chiếc tàu ngầm đã bị tiêu diệt.[8]

Vào ngày 6 tháng 12, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-37 có thể đã bị mất với tổn thất toàn bộ 113 thành viên trên tàu tại khu vực Palau.[8] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.[7][8]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Boyd & Yoshida (2002).
  4. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  7. ^ a b c d e f g “I-37 ex I-49 ex No-150”. ijnsubsite.info. 15 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2010). “IJN Submarine I-37: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
  9. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2019). “IJN Submarine I-45: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa