Sk8er Boi

đĩa đơn của Avril Lavigne (2002)

"Sk8er Boi" (đọc là "Skater Boy") là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Canada Avril Lavigne, nằm trong album phòng thu đầu tay của cô, Let Go (2002). Sau khi ký hợp đồng với hãng thu âm Arista Records, Lavigne hợp tác cùng đội ngũ The Matrix để sáng tác "Sk8er Boi" dựa trên cảm hứng từ thời trung học của cô. "Sk8er Boi" là một bài hát thuộc thể loại pop punk pha trộn với nhiều âm hưởng thể loại khác. Nội dung kể về một cô gái vũ công ba lê từ chối một chàng trai trượt ván vì cô không chấp nhận kỳ thị xã hội gắn liền với tiểu văn hóa của anh. Cuối cùng, cô gái đã hối hận sau khi chứng kiến chàng trai đó trở thành ngôi sao nhạc rock.

"Sk8er Boi"
Lavigne mặc áo thun đeo cà vạt nới lỏng đang đứng ở phông nền màu xanh lục họa tiết. Một tay có đeo đồng hồ của cô đặt vào bên hông và gương mặt cô hướng sang bên trái. Bên phải là dòng chữ Avril Lavigne và Sk8er Boi vàng trắng xoay 90 độ theo chiều kim đồng hồ. Bên trái góc trên là hình vẽ tay ngôi sao màu vàng.
Bìa CD quảng bá tại Hoa Kỳ[a]
Đĩa đơn của Avril Lavigne
từ album Let Go
Mặt A"I'm with You" (đĩa đơn DVD)
Mặt B"Get over It"
Phát hành9 tháng 9 năm 2002 (2002-09-09)
Phòng thu
Thể loạiPop punk
Thời lượng3:23
Hãng đĩaArista
Sáng tác
Sản xuấtThe Matrix
Thứ tự đĩa đơn của Avril Lavigne
"Complicated"
(2002)
"Sk8er Boi"
(2002)
"I'm with You"
(2002)
Bìa đĩa khác
Bìa CD tại các quốc gia châu Âu
Bìa CD tại các quốc gia châu Âu
Video âm nhạc
"Sk8er Boi" trên YouTube

Sau cuộc tranh luận nội bộ, Arista đồng ý phát hành "Sk8er Boi" làm đĩa đơn thứ hai cho Let Go bằng cách đưa lên các đài phát thanh tại Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Bài hát đạt hạng 10 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và được RIAA chứng nhận đĩa 3× Bạch kim. "Sk8er Boi" còn vươn lên top 10 bảng xếp hạng âm nhạc hoặc được chứng nhận đĩa Bạch kim ở các quốc gia nói tiếng Anh khác như Úc, Canada, New Zealand, Ireland, Scotland và Anh Quốc. "Sk8er Boi" nhận về nhiều đánh giá hoan nghênh từ các ấn phẩm đương thời và sau này. Giới phê bình ca ngợi năng lượng trẻ trung của bài hát và sức hấp dẫn của Lavigne đối với các khán giả trẻ.

Francis Lawrence phụ trách đạo diễn video âm nhạc của "Sk8er Boi", công chiếu trên Total Request Live của MTV vào ngày 22 tháng 8 năm 2002. Nội dung MV tập trung vào một buổi hòa nhạc ngẫu hứng của Lavigne tại một ngã tư ở thành phố Los Angeles. MV "Sk8er Boi" nhận về một đề cử Video pop xuất sắc nhất tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2003. "Sk8er Boi" góp mặt trong danh sách tiết mục của toàn bộ chuyến lưu diễn lớn do nữ ca sĩ chủ trì. Bài hát từng được nhiều nghệ sĩ cover hoặc sử dụng trong các chương trình truyền hình và trò chơi điện tử. "Sk8er Boi" được đề cử giải Grammy cho trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 45.

Bối cảnh và phát hành

sửa

Tháng 11 năm 2000, nữ ca sĩ người Canada Avril Lavigne ký hợp đồng với hãng thu âm Arista Records của Antonio "L.A." Reid và bắt tay cùng nhiều nhà sản xuất âm nhạc để sản xuất album phòng thu đầu tay Let Go, phát hành vào năm 2002.[1] Cô hợp tác với đội ngũ nhà sản xuất âm nhạc The Matrix gồm Lauren Christy, Scott SpockGraham Edwards để sáng tác và sản xuất 10 bài hát cho album. Trong buổi họp đầu tiên, nữ ca sĩ từ chối các bản sáng tác pop của The Matrix và yêu cầu họ làm các bản nhạc rock. Đêm hôm đó, Lavigne cùng đội ngũ sáng tác "Complicated". Không bao lâu sau, họ sáng tác tiếp "Sk8er Boi" và "I'm with You" trong những buổi làm việc tại phòng thu âm.[2]

Lavigne sáng tác "Sk8er Boi" trong phòng thu âm Decoy Studios tại Valley Village, California cùng The Matrix,[2][3] dựa trên cảm hứng từ rất nhiều cặp đôi mà cô đã chứng kiến trong trường trung học và cách họ đối xử với nhau và cô từng là một dân trượt ván. Nữ ca sĩ cho biết cô pha chất giọng "hơi nữ tính" vào bài hát là vì bản thân từng mê mẩn những chàng trai trượt ván lẫn các ngôi sao nhạc rock.[4] The Matrix đảm nhận toàn bộ khâu sản xuất, biên khúc, thu âm và bổ sung giọng hát cho "Sk8er Boi" với sự hỗ trợ từ Femio Hernandez. Corky JamesVictor Indrizzo lần lượt biểu diễn guitar và trống cho bài hát. Nhà sản xuất Mark Howard phụ trách thu âm phần trống cho "Sk8er Boi" tại Real Music Studios phía Los Angeles, California, còn kỹ sư Tom Lord-Alge thì phối trộn âm thanh bài hát tại South Beach Studios phía Miami, Florida.[3] Lavigne lựa chọn biểu tượng chủ đạo của "Sk8er Boi" là hình ngôi sao[5] và lấy nhan đề bài hát là tên cách điệu của "Skater Boy".[6]

Sau thành công thương mại của đĩa đơn mở đường "Complicated", "Sk8er Boi" được chọn phát hành làm đĩa đơn tiếp theo từ Let Go với mục tiêu chinh phục đối tượng thanh thiếu niên. Tuy nhiên, nội bộ hãng đĩa Arista đã có một cuộc tranh luận tương tự như "Complicated", khi họ lo rằng "Sk8er Boi" có thể không phù hợp đối với những người thưởng thức âm nhạc nghiêm túc. Quản lý của Lavigne, Terry McBride thuộc Nettwerk Music Group, giải quyết vấn đề này bằng cách chứng minh rằng "Sk8er Boi" giúp Lavigne trở thành một nghệ sĩ khác biệt. Cuối cùng, Arista đồng ý phát hành "Sk8er Boi" làm đĩa đơn thứ hai cho Let Go,[7] bằng cách đưa bài hát lên các đài phát thanh mainstream, hit đương đạihot adult contemporary tại Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 9 năm 2002.[8][9] Ngày 11 tháng 3 năm 2003, đĩa đơn DVD hai mặt "I'm with You"/"Sk8er Boi" được phát hành, trong đó tặng kèm bộ báo chí điện tử và bộ sưu tập ảnh.[10] Năm 2022, "Sk8er Boi" được remaster phần phối khí và phát hành trong bản kỷ niệm 20 năm album Let Go. Ca khúc mặt B "Get over It" từng nằm trong bản CD của bài hát cũng được phát hành trên nền tảng số.[11] Bản remaster của "Sk8er Boi" còn xuất hiện trong album tuyển tập Greatest Hits của Lavigne, phát hành vào năm 2024.[12]

Nhạc và lời

sửa

"Sk8er Boi" là một bài hát thuộc thể loại pop punk.[b] Việc phân thể loại ca khúc này từng là một đề tài tranh luận sôi nổi bởi nhiều người thắc mắc bài hát thuộc pop hay punk. Sau khi "Sk8er Boi" được phát hành lên đài phát thanh punk, nhiều người cuồng thể loại này đã vội tắt đi mỗi khi ca khúc này được phát thanh với ý kiến trái chiều rằng "cô ấy không thực sự theo dòng nhạc punk."[20] Ngoài ra, các nhà phê bình còn phân "Sk8er Boi" thuộc nhiều thể loại khác nhau chẳng hạn như skate punk,[21][22] punk rock,[23] pop rock,[24] alternative rock,[6] rock and roll,[25] new wave[26]power pop.[27][28] Lavigne cho rằng bài hát thiên về thể loại rock nhiều hơn pop.[4] "Sk8er Boi" sử dụng hợp âm guitar "nouveau-punk" (punk kiểu mới) theo Rolling Stone,[29] gồm các hợp âm chính như D5 (Rê năm), A5 (La năm), B5 (Si năm), B5 (Si giáng năm), C5 (Đô năm), F5 (Fa năm) và D5 (Rê giáng năm).[30]

Câu chuyện của "Sk8er Boi" kể về một cô gái múa ba lê xinh đẹp từ chối một chàng trai trượt ván vì cô không chấp nhận kỳ thị xã hội gắn liền với tiểu văn hóa của anh,[31] lo sợ bạn bè cô sẽ nghĩ không tốt nếu họ nhìn thấy mối quan hệ giữa cô và anh.[32] Lavigne sử dụng nghệ thuật đối lập giới tính và địa vị ngay từ phân đoạn đầu tiên nhằm tạo bối cảnh cho câu chuyện buồn của bài hát.[33] Các điệp khúc của "Sk8er Boi" tuy khác nhau nhưng đều bắt đầu bằng hai câu giống nhau: "He was a skater boy / She said 'see you later boy.'"[c][34] 5 năm sau, chàng trai trở thành một ngôi sao nhạc rock nổi tiếng. Lúc đó, cô gái ngỡ ra được lý do cô quá xem nhẹ chàng trai ấy ngay từ đầu do chỉ dựa vào ngoại hình và lời ra tiếng vào từ bạn bè cô mà cho rằng anh không tốt với cô. Thành thử ra bây giờ, cô gái phải ở nhà chăm con và lặng nhìn anh trình diễn trên kênh MTV.[35] Lavigne phá vỡ bức tường thứ tư,[18] tưởng tượng chính cô là người may mắn có được mối tình mới cùng ngôi sao nhạc rock qua điệp khúc cuối: "I'm with the skater boy / I said, 'See you later, boy / I'll be backstage after the show / I'll be at a studio / Singing the song we wrote / About a girl you used to know.'"[d][4][36] Nữ ca sĩ bàn về thông điệp của "Sk8er Boi" rằng là "hãy luôn sống thật với chính mình",[4] song học giả Mark D. Pepper từ tập san The Journal of Popular Culture bảo rằng trên thực tế, "bạn chỉ có thể trở thành chính mình khi người khác cũng nghĩ đến và quan tâm đến bản thân bạn."[32]

Đánh giá chuyên môn

sửa

Đương thời

sửa

"Sk8er Boi" nhận về sự hoan nghênh từ giới chuyên môn và các nhà báo đương thời. Qua bài hát, họ ca ngợi năng lượng trẻ trung và sức hấp dẫn của Lavigne đối với các khán giả trẻ.[e] Một số ấn phẩm chọn "Sk8er Boi" là ca khúc tiêu biểu trong Let Go.[f] Nick Reynolds của BBC ca ngợi âm nhạc của bài hát là choáng ngợp dễ đọng lại trong tâm trí, đoạn điệp khúc của "Sk8er Boi" là "tuyệt vời", và so sánh cốt truyện được kể lại một "khéo léo và thông minh" trong bài hát với một tập phim Buffy the Vampire Slayer.[44] Tương tự, Pat Blashill của Rolling Stone phát biểu rằng "Sk8er Boi" sở hữu chất nhạc bứt phá hơn nhiều so với âm nhạc chủ đạo pop rock của Let Go. Anh gọi bài hát là khoảnh khắc đặc trưng năm 17 tuổi của Lavigne và ca ngợi giọng hát của cô mạnh mẽ đến mức "có khả năng kích hoạt báo động ô tô cách vài dãy nhà trong thành phố."[29] Spin khuyến khích tải bài hát và gọi đây là một ca khúc được viết lại từ "Superstar" (1971) của The Carpenters cho những thí sinh tham gia American Idol.[47]

Nhiều nhà phê bình khen ngợi những cảm xúc mới lớn và tính gần gũi của "Sk8er Boi", chẳng hạn như John Perry từ Blender phát biểu rằng "lời bài hát ngây thơ nhưng dễ thương."[37] People bảo rằng Lavigne tiếp cận khán giả trẻ bằng "bằng phong cách punk quyến rũ trong những ca khúc trẻ trung" như "Sk8er Boi".[38] Chuck Taylor từ Billboard đánh giá cao chất liệu sôi động của bài hát dễ đưa người nghe vào phong thái gật đầu theo từng nhịp nhạc.[25] Tương tự, "Sk8er Boi" còn được hai nhà báo Lindsay Merwin của Reading Eagle và John Young của Pittsburgh Post-Gazette đánh giá là dễ được mọi người hát theo.[20][39] Tạp chí Music Week khẳng định "Sk8er Boi" chắc chắn sẽ mang lại cho Lavigne nhiều danh tiếng hơn với giới trẻ, sau cú thành công vang dội đến từ "Complicated".[40] Todd Martens viết cho Billboard gọi "Sk8er Boi" là "thánh ca nhạc punk",[41] Mark Sutherland của The Times gọi đây là "thánh ca thanh thiếu niên",[42] còn Sarah Boden của The Observer thì ví "Sk8er Boi" là một "thánh ca trượt ván thân thiện với đài phát thanh".[43]

Một số cây viết để ý sức ảnh hưởng của "Sk8er Boi" trong âm nhạc, như Boden khẳng định đây là ca khúc đã đưa Lavigne lên vị thế "siêu sao toàn cầu".[43] Bên cạnh "Complicated", David A. Keeps từ tạp chí W tán dương "Sk8er Boi" đã định nghĩa nên "tuổi mới lớn của thế kỷ 21" là sự kết hợp giữa "ngây thơ và tinh tế".[48] Nandini D'Souza cùng tạp chí khen ngợi bài hát đã đem đến một làn sóng mới trong công nghiệp âm nhạc, trái ngược với xu thế gợi cảm từ những nghệ sĩ nhạc pop đi trước.[49] Các chuyên gia còn bàn bạc hoặc phê bình những khía cạnh khác của "Sk8er Boi", như Tom Gatti của The Times để ý bài hát vừa kể về "câu chuyện chiến thắng của người trượt ván" vừa "ca ngợi nỗi đau khổ của những bà mẹ đơn thân" một cách kỳ lạ.[50] Caroline Sullivan từ The Guardian ví "Sk8er Boi" mang phong cách của ban nhạc Blondie[51] trong khi cùng tờ báo, Andrew Mueller phê bình bài hát nghe buồn chán còn hơn "đi ăn một bữa với thực đơn chuỗi bốn món toàn là xà lách".[6] Christina Saraceno của AllMusic cũng khen ngợi "Sk8er Boi" mang giai điệu tuyệt vời, song nhà phê bình này chỉ trích bài hát còn thiếu sót rất nhiều về mặt ca từ.[27]

Đánh giá sau này

sửa

"Sk8er Boi" là một bài hát mang tính định nghĩa trong sự nghiệp của Lavigne, giúp cô khẳng định chính mình không phải là một one-hit wonder.[52][53] Giới chuyên môn sau này vẫn dành lời khen cho giai điệu sôi động của bài hát, đoạn hook tập trung vào chủ đề và những đoạn riff dễ nhận biết. Những yếu tố này không chỉ góp phần giúp cho "Sk8er Boi" trở thành một thánh ca hát theo đối với đông đảo khán giả, mà còn giúp Lavigne có thể cạnh tranh ngang hàng với những nghệ sĩ punk nam giới, trong khi vẫn giữ được cá tính riêng.[g] Viết bài tái đánh giá Let Go cho Stereogum, James Rettig ca ngợi câu chuyện giữa cặp đôi giàu–nghèo của "Sk8er Boi" kèm theo plot twist không chỉ hoàn toàn có thể dựng thành một bộ phim điện ảnh mà còn là "một sự điều chỉnh" cho công nghiệp âm nhạc teen pop vốn đã bị tình dục hóa quá mức vào đầu những năm 2000.[19] Jamieson Cox của Pitchfork nhấn mạnh rằng "Sk8er Boi" là Lavigne lúc "máu lửa nhất" với phong cách kể chuyện của bài hát được diễn đạt bằng những ẩn dụ lãng mạn quen thuộc trong bối cảnh trường trung học. Nhà phê bình so sánh bài hát có nét giống với đĩa đơn "You Belong with Me" sau này của nữ ca sĩ Taylor Swift.[56]

Giới chuyên môn sau này vẫn ca ngợi tính mới mẻ trong âm nhạc của "Sk8er Boi" và gọi đây là một chuẩn mực văn hóa đầu thập niên 2000. Cây bút Harrison Brocklehurst của The Tab mô tả bài hát là vượt thời gian và mang tính dân gian trong kể chuyện, gây được tiếng vang với cả người nghe thế hệ Millennialsthế hệ Z tựa như "Love Story" của Swift.[57] Jacob Uitti từ American Songwriter hồi tưởng lại đoạn điệp khúc đáng nhớ của ca khúc đã góp phần giúp cho Lavigne trở nên thành danh trên toàn cầu.[58] Cùng tạp chí, Catherine Walthall cho rằng sức chạy đường dài của "Sk8er Boi" có được là nhờ vào lời ca thẳng thắn của Lavigne và sức hấp dẫn của bài hát xứng đáng trở thành một bài thánh ca về tuổi mới lớn.[23] Alexis Petridis của The Guardian và Elizabeth Scarlett của Classic Rock cùng ca ngợi cách tiếp cận mới mẻ và thân thiện với lứa tuổi mới lớn của bài hát. Riêng Scarlett thì để ý sức ảnh hưởng của "Sk8er Boi" trong tiểu văn hóa emo và nhấn mạnh ý nghĩa của một mối quan hệ thất bại với các thế hệ sau này.[18][59] Mike Rampton của Kerrang! mô tả bài hát là một kiệt tác nhạc pop punk với chủ đề bi kịch lãng mạn mang tầm vóc của nhà văn William Shakespeare,[60] trong khi Terry Bezer từ Screen Rant thì khẳng định vị thế của "Sk8er Boi" là biểu tượng cho vị trí độc nhất của Lavigne với tư cách là "nữ hoàng nhạc pop punk".[61]

Diễn biến thương mại

sửa

Sau khi được phát hành trên các đài phát thanh tại Hoa Kỳ, "Sk8er Boi" xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 72.[62] Bài hát đạt cao nhất ở hạng 10 trong tuần lễ ngày 2 tháng 11 năm 2002.[63] "Sk8er Boi" đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng phát thanh Mainstream Top 40,[64] và được Billboard công bố đạt chứng nhận BDS từ Nielsen Broadcast Data Systems ở cột mốc 100.000 lượt phát thanh trong số phát hành ngày 21 tháng 12 năm 2002.[65] Tính đến năm 2024, Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận cho "Sk8er Boi" đĩa 3× Bạch kim, tương đương 3.000.000 bản thuần được tiêu thụ.[66] Trong khi đó, video đĩa đơn "I'm with You"/"Sk8er Boi" được RIAA chứng nhận đĩa Bạch kim vào năm 2003, tương đương 50.000 đơn vị.[67] Tương tự tại Canada, "Sk8er Boi" tuy chỉ đạt hạng 29 trên bảng xếp hạng tải nhạc số,[68] nhưng lại đứng thứ nhất và thứ nhì lần lượt trên các bảng xếp hạng phát thanh tổng hợp và phát thanh hit đương đại tại quốc gia này.[69] Năm 2024, bài hát được Music Canada chứng nhận đĩa 3× Bạch kim.[70]

Phía bên nước Úc, "Sk8er Boi" ra mắt ở hạng 3 và giữ vị trí này hai tuần liên tiếp.[71] Bài hát được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc chứng nhận đĩa Bạch kim.[72] Tại New Zealand, "Sk8er Boi" ra mắt ở hạng 46 và đạt hạng 2 vào tuần trụ hạng ngày 8 tháng 12 năm 2002.[73] Năm 2023, Recorded Music NZ chứng nhận cho bài hát đĩa Bạch kim kép.[74] "Sk8er Boi" đạt hạng 3, hạng 7 và hạng 8 lần lượt trên bảng xếp hạng đĩa đơn các quốc gia Ireland,[75] Scotland[76] và Anh Quốc.[77] Năm 2024, Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Anh chứng nhận cho bài hát đĩa Bạch kim kép.[78] Ngoài ra, "Sk8er Boi" còn vươn lên top 10 trên các bảng xếp hạng âm nhạc ở những quốc gia và vùng lãnh thổ như Croatia (6),[79] Hà Lan (6),[80] Áo (7),[81] vùng Vlaanderen của Bỉ (7),[82] Ý (8),[83] châu Âu (9)[84] và Romania (9).[85]

Video âm nhạc

sửa

Bối cảnh và nội dung

sửa

Video âm nhạc (MV) "Sk8er Boi" được đạo diễn bởi Francis Lawrence. Lavigne có mặt để ghi hình MV trong hai ngày 27 và 28 tháng 7 năm 2002. Ngày thứ nhất, nữ ca sĩ thực hiện các cảnh quay phim bên trong một tòa nhà bỏ trống đóng vai trò là "trung tâm chỉ huy" của ban nhạc trước khi đến buổi biểu diễn trên phố. Ngày thứ hai là ngày ghi hình buổi hòa nhạc của Lavigne tại ngã tư của 7th St và S Spring St ở trung tâm Los Angeles. Bối cảnh MV "Sk8er Boi" ngày hôm đó được xây dựng bằng cách tuyên truyền quảng bá cho những cư dân Los Angeles tò mò đến làm quần chúng. Những người trượt ván và đi xe BMX truyền bá thông tin về buổi biểu diễn đường phố của Lavigne bằng cách phun sơn hình ngôi sao tượng trưng cho biểu tượng của "Sk8er Boi" và đến lúc bắt đầu ghi hình, khu vực ngã tư tràn ngập những người tham gia nhiệt tình.[86]

Trang phục của Lavigne trong MV "Sk8er Boi" gồm một vòng tay đinh tán, quần rộng thùng thình, giày Converse[87] và áo phông xanh lục họa tiết chữ vàng từ trường tiểu học Wilkesboro ở North Carolina nhưng được mua từ một cửa hàng tiết kiệm ở thành phố New York.[88] Chiếc cà vạt kẻ sọc mà nữ ca sĩ đeo trong MV được lấy từ tủ quần áo của cha cô.[89] Nội dung MV "Sk8er Boi" hoàn toàn không liên quan đến cốt truyện trong bài hát, chỉ tập trung vào một buổi hòa nhạc ngẫu hứng do Lavigne tổ chức tại một ngã tư đường phố ở Los Angeles. MV bắt đầu bằng cảnh một số người bạn và thành viên ban nhạc của Lavigne quảng bá buổi hòa nhạc thông qua graffiti, tờ rơi, thư điện tửáp phích. Lavigne và ban nhạc của cô đến địa điểm và bắt đầu biểu diễn trên nóc xe. Đám đông nhanh chóng tụ tập lại và quẩy rock theo nữ ca sĩ. Cuối MV, nhiều xe cảnh sát và một chiếc trực thăng đến để giải tán đám đông. Lavigne đập vỡ kính chắn gió của chiếc xe mà mình đang đứng bằng guitar. Sau đó, nữ ca sĩ ném cây đàn guitar xuống đường và nhìn lên chiếc trực thăng.[86] Mike Rampton của Kerrang! cho biết phân cảnh nữ ca sĩ nhìn lên trực thăng được cắt làm ảnh bìa đĩa đơn "Sk8er Boi".[60]

Công chiếu và đón nhận

sửa

Ngày 20 tháng 8 năm 2002, MTV phát sóng hậu trường thực hiện MV "Sk8er Boi" qua chương trình Making the Video.[86] Sang ngày 22 tháng 8, MV chính thức của "Sk8er Boi" được công chiếu trên chương trình Total Request Live hướng đến đối tượng thanh thiếu niên của MTV.[90] Công chiếu được hai ngày, MV "Sk8er Boi" nhảy vọt lên hạng đầu tiên trên bảng xếp hạng Total Request Live.[91] Ngày 27 tháng 8 năm 2002, MTV tiếp tục công chiếu "Sk8er Boi" cùng hậu trường trên các kênh lớn chính thức của mình.[92] Nhiều người đã từng đặt mua chiếc áo thun xanh lục họa tiết vàng từ trường Wilkesboro giống như Lavigne đã mặc trong MV, vốn chưa chưa từng được bán trong 4 năm.[88] Elysa Gardner từ USA Today đánh giá MV "Sk8er Boi" hấp dẫn "nhiều cô gái tuổi teen và thuyết phục cha mẹ của họ hơn" là những nỗ lực gây sốc như hai nữ ca sĩ Britney SpearsMadonna.[93] Ngày 28 tháng 8 năm 2003, MV "Sk8er Boi" nhận về một đề cử Video pop xuất sắc nhất tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2003.[94] MV được bình chọn là một trong những video hay nhất thập kỷ trên Total Request Live.[58] BT Vision xếp "Sk8er Boi" ở vị trí thứ 3 trong danh sách "video âm nhạc xuất sắc nhất thập kỷ" tại Anh.[95]

Biểu diễn trực tiếp và sử dụng

sửa
 
Lavigne biểu diễn "Sk8er Boi" tại The Best Damn Tour (2008).

Phỏng vấn với Billboard vào năm 2007, Lavigne cho biết "Sk8er Boi" là một bài hát cô luôn yêu thích biểu diễn trực tiếp và tái sử dụng chất liệu cho những sáng tác sau này, vì "bài hát đó luôn sôi động trên sân khấu và tôi cảm thấy đó chính là tôi."[41] Ngày 29 tháng 8 năm 2002, cô biểu diễn rút gọn hai bài "Complicated" và "Sk8er Boi" trước chương trình giải Video âm nhạc của MTV năm 2002 trên sân khấu Radio City.[96] Đầu tháng 10 năm 2002, nữ ca sĩ góp mặt trên chương trình tọa đàm Late Show with David Letterman để biểu diễn bài hát.[97] Lavigne mở màn giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 2002 bằng liên khúc "Sk8er Boi" và "Complicated".[4] Cô trình diễn "Sk8er Boi" tại giải Grammy lần thứ 45, nơi cô nhận được một đề cử cho bài hát.[98] Ngày 20 tháng 2 năm 2003, Lavigne góp mặt tại giải Brit 2003 để trình diễn mở màn "Sk8er Boi".[99]

"Sk8er Boi" xuất hiện trong danh sách tiết mục của toàn bộ chuyến lưu diễn lớn do Lavigne chủ trì: Try to Shut Me Up Tour (2002–03),[100] Live by Surprise Tour (2004),[101] Bonez Tour (2004–05),[102] The Best Damn Tour (2008),[103] Black Star Tour (2011–12),[104] The Avril Lavigne Tour (2013–14),[105] Head Above Water Tour (2019),[106] Love Sux Tour (2022–23)[107]Greatest Hits Tour (2024–25).[108] Năm 2007, nghệ sĩ Eurodance người Đức Cascada đã hát lại "Sk8er Boi" và phát hành trong album phòng thu thứ hai Perfect Day của họ.[109] Bài hát từng được nhiều nghệ sĩ cover lại như ca sĩ queer Weston Allen,[110] Conan Gray,[111] Machine Gun Kelly (đoạn riff),[112] Huening Kai từ nhóm nhạc nam Hàn Quốc Tomorrow X Together[113] và Yoon từ nhóm nhạc nữ Hàn Quốc STAYC.[114] Rapper người Mỹ Ashnikk từng viết lại lời bài hát "Sk8er Boi" và phát hành với tên gọi là "L8r Boi" trong mixtape Demidevil.[115] Năm 2023, ban nhạc rock Simple Plan cover "Sk8er Boi" tại lễ hội âm nhạc When We Were Young, nơi Lavigne cũng bất ngờ xuất hiện và trình diễn bài hát.[116]

Cuối tháng 5 năm 2003, đội ngũ của Lavigne công bố Paramount Pictures lựa chọn chuyển thể "Sk8er Boi" thành một bộ phim truyện dài tập do nhà biên kịch David Zabel đảm nhận, còn MTV Films thì cùng Alphaville Films phụ trách sản xuất.[h][117] Lavigne từng xuất hiện và biểu diễn "Sk8er Boi" trong loạt phim hài kịch tình huống Sabrina – Cô phù thủy nhỏ mùa 7, phát sóng trên đài ABC. Tuy nhiên, màn trình diễn nữ ca sĩ hoàn toàn bị cắt bỏ khỏi phương tiện DVD của chương trình truyền hình.[118] Bài hát xuất hiện ở tập 2 mang tựa đề "The Promise" trong mùa 3 của loạt phim truyền hình Cold Case.[119] "Sk8er Boi" còn góp mặt trong tập phim "Get Some" của loạt phim ngắn tập Generation Kill do nhân vật Josh Ray Person cover.[120] Bài hát xuất hiện trong các trò chơi điện tử như Elite Beat Agents,[121] Rock Revolution,[122] SingStar Pop[123]Just Dance 2024 Edition.[124]

Thành tựu và giải thưởng

sửa

Sau khi "Sk8er Boi" phát hành, skater boi trở thành thuật ngữ đại chúng.[125] Screen Rant xếp bài hát ở vị trí thứ 8 trong danh sách 15 bài hát pop punk định nghĩa nên thể loại,[61] trong khi Spin bình chọn ca khúc ở vị trí thứ 5 trong danh sách 21 điệp khúc pop punk xuất sắc nhất thế kỷ 21.[34] Billboard xếp "Sk8er Boi" ở vị trí thứ 3 trong danh sách bài hát xuất sắc nhất năm 2002 của họ,[16] còn Cleveland.com thì đặt bài hát ở hàng thứ 25 trong danh sách 100 ca khúc pop punk xuất sắc nhất.[17] "Sk8er Boi" góp mặt trong danh sách bài hát xuất sắc nhất của Lavigne theo Grammy,[53] American Songwriter (thứ 1),[58] The Tab (thứ 3),[57] AOL Radio (thứ 4)[126]Digital Spy (thứ 4).[52]

"Sk8er Boi" được đề cử giải Grammy cho trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 45.[98] Bài hát thắng hai giải tại giải Video MuchMusic năm 2003 gồm Video quốc tế xuất sắc nhất của nghệ sĩ CanadaLựa chọn của mọi người: Nghệ sĩ được yêu thích nhất.[127]

Giải thưởng và đề cử của "Sk8er Boi" năm 2003
Lễ trao giải Hạng mục Kết quả Nguồn
Giải Grammy lần thứ 45 Trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất Đề cử [98]
Giải Video âm nhạc của MTV Video pop xuất sắc nhất Đề cử [94]
Giải Video MuchMusic Video quốc tế xuất sắc nhất của nghệ sĩ Canada Đoạt giải [127]
Lựa chọn của mọi người: Nghệ sĩ được yêu thích nhất Đoạt giải
Giải Sự lựa chọn của trẻ em của kênh Nickelodeon Bài hát được yêu thích nhất Đoạt giải [128]
Giải thưởng Âm nhạc của Radio Disney Bài hát để chơi guitar tưởng tượng xuất sắc nhất Đoạt giải [129]
Video tuyệt vời nhất Đề cử
Giải SOCAN Giải thưởng Âm nhạc Pop/Rock Đoạt giải [126]
Giải Sự lựa chọn của giới trẻ Âm nhạc được lựa chọn – Đĩa đơn Đoạt giải [130]

Danh sách bài hát

sửa

Đội ngũ sản xuất

sửa

Thông tin phần ghi công được lấy từ ghi chú CD đĩa đơn của bài hát.[3]

Địa điểm
  • Thu âm: Decoy Studios tại Valley Village, California.
  • Thu âm phần trống: Real Music Studios tại Los Angeles, California.
  • Trộn âm: South Beach Studios tại Miami, Florida.
Đội ngũ

Bảng xếp hạng

sửa

Chứng nhận

sửa
Chứng nhận của "Sk8er Boi"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[72] Bạch kim 70.000^
Brasil (Pro-Música Brasil)[166] Bạch kim 60.000*
Canada (Music Canada)[70] 3× Bạch kim 240.000
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[167] Vàng 45.000
Đức (BVMI)[168] Vàng 250.000
New Zealand (RMNZ)[74] 2× Bạch kim 60.000
Anh Quốc (BPI)[78] 2× Bạch kim 1.200.000
Hoa Kỳ (RIAA)[66] 3× Bạch kim 3.000.000
Hoa Kỳ (RIAA)[67]
Dành cho đĩa đơn video, kết hợp với "I'm with You"
Bạch kim 50.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ và phát trực tuyến.

Chú thích

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Bìa CD quảng bá tại Hoa Kỳ còn được dùng làm bìa đĩa CD tại Úc, nhưng có thêm phần viền vàng và xanh bên ngoài.
  2. ^ Nguồn từ Philippine Daily Inquirer,[13] The New York Times,[14][15] Billboard,[16] Cleveland.com,[17] The Guardian[18]Stereogum.[19]
  3. ^ Tạm dịch: "Anh ấy là chàng trai trượt ván / Cô ấy nói 'gặp lại anh sau.'"
  4. ^ Tạm dịch: "Tôi sánh vai cùng chàng trai trượt ván / Tôi đã nói, 'Gặp lại anh sau nhé / Em sẽ ở sau cánh gà sau buổi diễn / Em sẽ trong phòng thu / Hát bài hát mà chúng ta cùng sáng tác / Về một người con gái mà anh từng quen biết.'"
  5. ^ Nguồn từ John Perry của Blender,[37] một tác giả của People,[38] Lindsay Merwin của Reading Eagle,[20] John Young của Pittsburgh Post-Gazette,[39] một tác giả của Music Week,[40] Todd Martens của Billboard,[41] Mark Sutherland của The Times[42] và Sarah Boden của The Observer.[43]
  6. ^ Nguồn từ Nick Reynolds của BBC,[44] Lisa Verrico của The Times,[45] Christina Saraceno của AllMusic[27] và Craig S Semon của Telegram & Gazette.[46]
  7. ^ Nguồn từ Stephen Daw của Billboard,[16] Troy L. Smith của Cleveland.com[17] và Mala Mortensa của Alternative Press.[54][55]
  8. ^ Tính đến ngày 11 tháng 4 năm 2025, kế hoạch thực hiện phim chuyển thể cho "Sk8er Boi" vẫn chưa được thực hiện. Chỉ có thông tin trong năm 2021, Lavigne xác nhận sẽ thực hiện cho kỷ niệm 20 năm bài hát.[36]

Tham khảo

sửa
  1. ^ Pak, SuChin; D'Angelo, Joe (ngày 12 tháng 7 năm 2002). "Avril Lavigne: The Real Deal" [Avril Lavigne: Cuộc thỏa thuận thực tế] (bằng tiếng Anh). MTV. tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2002. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  2. ^ a b Strauss, Neil (ngày 8 tháng 5 năm 2003). "THE POP LIFE; Given Up, A Dream Returns To Life" [CUỘC SỐNG CỦA POP; Từ bỏ, giấc mơ trở lại với cuộc sống]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b c d Sk8er Boi (Ghi chú đĩa đơn CD châu Âu tiêu chuẩn) (bằng tiếng Anh). Arista Records, BMG. 2002. 74321 979792. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  4. ^ a b c d e "Backstage At The Billboard Music Awards" [Hậu trường tại lễ trao giải thưởng Âm nhạc Billboard]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 114 số 51. ngày 21 tháng 12 năm 2002. tr. 69. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  5. ^ Havens, Lyndsey (ngày 24 tháng 9 năm 2019). "Avril Lavigne Is Back on the Road & Still Inspiring Artists Like the 'Extremely Talented' Billie Eilish" [Avril Lavigne đã trở lại con đường âm nhạc và vẫn truyền cảm hứng cho những nghệ sĩ như Billie Eilish 'cực kỳ tài năng']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  6. ^ a b c Mueller, Andrew (ngày 14 tháng 12 năm 2002). "The Guide: Music: NEW SINGLES" [Hướng dẫn: Âm nhạc: ĐĨA ĐƠN MỚI]. The Guardian (bằng tiếng Anh). tr. 25. Gale A95487342.
  7. ^ Willman, Chris (ngày 6 tháng 11 năm 2002). "How Avril Lavigne risked being seen as TOO young" [Avril Lavigne đã mạo hiểm như thế nào khi bị coi là QUÁ trẻ]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ "CMJ Retail 100: Avril Lavigne" [Bảng xếp hạng CMJ Retail 100: Avril Lavigne]. CMJ New Music Report (bằng tiếng Anh). Quyển 73 số 779. ngày 9 tháng 9 năm 2002. tr. 36. ISSN 0890-0795. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  9. ^ "Going for Adds" [Sắp lên sóng] (PDF). Radio & Records. Số 1469. ngày 6 tháng 9 năm 2002. tr. 27. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2025.
  10. ^ Christman, Ed (ngày 22 tháng 2 năm 2003). "Retail Track" [Track bán lẻ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 115 số 8. tr. 35. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  11. ^ Blistein, Jon (ngày 3 tháng 6 năm 2022). "Avril Lavigne Drops New 'Breakaway' Version, Unearths Rarities for 'Let Go' Anniversary" [Avril Lavigne tung ra phiên bản mới của ‘Breakaway’, khám phá những điều hiếm có cho kỷ niệm ‘Let Go’]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  12. ^ Paul, Larisha (ngày 10 tháng 5 năm 2024). "Avril Lavigne's Greatest Hits Album Will Celebrate 'the Best Damn Thing' and Her Best Damn Songs" [Album Greatest Hits của Avril Lavigne sẽ ăn mừng ‘The Best Damn Thing’ và những bài hát hay nhất của cô ấy]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  13. ^ Salterio, Leah (ngày 6 tháng 11 năm 2002). "Real-girl Avril vs 'Dirrty' Christina" [Avril thực thụ đấu với Christina 'Dirrty']. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). tr. A29. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  14. ^ Pareles, Jon (ngày 17 tháng 12 năm 2002). "POP REVIEW; The Hit Parade Marches Toward a Kind of Reality" [ĐÁNH GIÁ NHẠC POP; Đoàn diễu hành hit tiến tới một dạng hiện thực]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  15. ^ Sanneh, Kelefa (ngày 12 tháng 4 năm 2003). "POP REVIEW; This Is for You, Mom and Dad" [ĐÁNH GIÁ NHẠC POP; Cái này dành cho bố mẹ ạ]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  16. ^ a b c Daw, Stephen; và đồng nghiệp (ngày 22 tháng 3 năm 2022). "The 100 Greatest Songs of 2002: Staff Picks" [100 bài hát hay nhất năm 2002: Lựa chọn của nhân viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  17. ^ a b c Smith, Troy L. (ngày 2 tháng 3 năm 2022). "The 100 greatest pop punk songs of all time" [100 bài hát pop punk xuất sắc nhất mọi thời đại]. Cleveland.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  18. ^ a b c Petridis, Alexis (ngày 20 tháng 6 năm 2024). "It's complicated: Avril Lavigne's 20 best songs – ranked!" [Thật phức tạp: 20 bài hát hay nhất của Avril Lavigne – được xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  19. ^ a b Rettig, James (ngày 2 tháng 6 năm 2022). "Let Go Turns 20" [Let Go tròn 20 tuổi]. Stereogum (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  20. ^ a b c Merwin, Lindsay (ngày 2 tháng 12 năm 2002). "CD Review: "Let Go" – Is Avril pop or punk?" [Đánh giá CD: "Let Go" – Avril theo dòng nhạc pop hay punk?]. Reading Eagle (bằng tiếng Anh). tr. 19. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  21. ^ Gennoe, Dan (tháng 9 năm 2002). "Avril Lavigne: Let Go" [Avril Lavigne: Let Go]. Q (bằng tiếng Anh). Số 194. tr. 109. ISSN 0955-4955.
  22. ^ Hart, Jon (ngày 24 tháng 10 năm 2002). "Avril Lavigne – Sk8er Boi" [Avril Lavigne – Sk8er Boi]. The Advertiser (bằng tiếng Anh). tr. 63. ProQuest 355770107.
  23. ^ a b Walthall, Catherine (ngày 25 tháng 8 năm 2022). "Why We're Still Listening to Avril Lavigne's "Sk8ter Boi" Two Decades Later" [Tại sao chúng ta vẫn nghe "Sk8ter Boi" của Avril Lavigne sau hai thập kỷ]. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  24. ^ "Avril Lavigne: Anything but Ordinary" [Avril Lavigne: Bất cứ điều gì nhưng không bình thường]. The Spokesman-Review (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 6 năm 2003. tr. E4. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  25. ^ a b Taylor, Chuck (ngày 24 tháng 8 năm 2002). "Spotlights: Avril Lavigne: Sk8er BOI" [Điểm nhấn: Avril Lavigne: Sk8er BOI] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 114 số 34. tr. 28. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  26. ^ Adams, Cameron (ngày 5 tháng 9 năm 2002). "Avril Lavigne – Let Go (BMG)" [Avril Lavigne – Let Go (BMG)]. Herald Sun (bằng tiếng Anh). tr. I.10. ProQuest 360432389.
  27. ^ a b c Saraceno, Christina. "Let Go – Avril Lavigne" [Let Go – Avril Lavigne] (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  28. ^ Anderman, Joan (ngày 21 tháng 6 năm 2002). "Avril Lavigne – Let Go – Arista" [Avril Lavigne – Let Go – Arista]. The Boston Globe (bằng tiếng Anh). tr. C.14. ProQuest 405479680.
  29. ^ a b Blashill, Pat (ngày 2 tháng 7 năm 2002). "Album Review: Avril Lavigne – Let Go" [Đánh giá album: Avril Lavigne – Let Go]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  30. ^ "Sk8er Boi: Words & Music by Avril Lavigne, Lauren Christy, Scott Spock & Graham Edwards" [Sk8er Boi: Lời & nhạc bởi Avril Lavigne, Lauren Christy, Scott Spock & Graham Edwards]. The Great Rock Chord Songbook [Tuyển tập hợp âm những bài hát rock vĩ đại nhất] (bằng tiếng Anh). Wise Music Group. 2002. ISBN 978-1-78323-359-5. OCLC 1028184961. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  31. ^ Pepper 2019, tr. 419; Rand 2012, tr. 194.
  32. ^ a b Pepper 2019, tr. 430.
  33. ^ Rand 2012, tr. 194.
  34. ^ a b Gaca, Anna; và đồng nghiệp (ngày 28 tháng 4 năm 2017). "The 21 Best Pop-Punk Choruses of the 21st Century" [21 điệp khúc nhạc pop punk xuất sắc nhất thế kỷ 21]. Spin (bằng tiếng Anh). tr. 4. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  35. ^ Burlingame 2010, tr. 38.
  36. ^ a b Bjornson, Greta (ngày 14 tháng 12 năm 2021). "Avril Lavigne Teases 'Sk8er Boi' Movie That Will Take Hit Song 'to the Next Level'" [Avril Lavigne hé lộ bộ phim 'Sk8er Boi' sẽ đưa bài hát hit 'lên tầm cao mới']. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  37. ^ a b Perry, John (tháng 8 năm 2002). "The Guide New Release: Avril Lavigne – Let Go" [Hướng dẫn phát hành mới: Avril Lavigne – Let Go]. Blender (bằng tiếng Anh). tr. 117. ISSN 1534-0554. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Internet Archive.
  38. ^ a b "Music: Let Go – Avril Lavigne (Arista)" [Âm nhạc: Let Go – Avril Lavigne (Arista)]. People (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 6 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  39. ^ a b Young, John (ngày 17 tháng 4 năm 2003). "Avril Lavigne needs to lighten up" [Avril Lavigne cần phải nhẹ nhàng hơn]. Pittsburgh Post-Gazette (bằng tiếng Anh). tr. C.3. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  40. ^ a b "Avril Lavigne: Sk8er Boi (BMG 74321 980702)". Music Week (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 12 năm 2002. tr. 17. Gale A95682196.
  41. ^ a b c Martens, Todd (ngày 10 tháng 3 năm 2007). "Avril's new, old attitude: Lavigne ditches the darkness of her last record, and gets back to being the world's no. 1 pop-punk princess" [Thái độ mới và cũ của Avril: Lavigne thoát khỏi sự u ám của album trước và trở lại với vai trò là công chúa nhạc pop punk số 1 thế giới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 119 số 10. tr. 24. ISSN 0006-2510. Gale A160280741.
  42. ^ a b Sutherland, Mark (ngày 16 tháng 11 năm 2002). "Music profile: Avril Lavigne" [Hồ sơ âm nhạc: Avril Lavigne]. The Times (bằng tiếng Anh). tr. 13. Gale A94495238.
  43. ^ a b c Boden, Sarah (ngày 3 tháng 10 năm 2004). "Review: POP: Not that complicated: She's not really a punk and she's hardly a rebel, but Avril Lavigne transcends branding with big bad riffs that rock the house" [Đánh giá: POP: Không phức tạp lắm: Cô ấy không thực sự là một punk và cũng không phải là một kẻ nổi loạn, nhưng Avril Lavigne đã vượt qua thương hiệu với những đoạn riff lớn và mạnh mẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà]. The Observer (bằng tiếng Anh). tr. 11. Gale A122781067.
  44. ^ a b Reynolds, Nick (ngày 9 tháng 1 năm 2003). "Avril Lavigne – Let Go – Review" [Avril Lavigne – Let Go – Đánh giá] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  45. ^ Verrico, Lisa (ngày 19 tháng 9 năm 2002). "Avril Lavigne; Pop" [Avril Lavigne; Pop]. The Times (bằng tiếng Anh). tr. 21. Gale A91794227.
  46. ^ Semon, Craig S (ngày 14 tháng 7 năm 2002). "It's Avril Lavigne's time to shine" [Giờ là lúc để Avril Lavigne tỏa sáng]. Telegram & Gazette (bằng tiếng Anh). tr. L5. ProQuest 268834885.
  47. ^ "Playlist: The song you need to know—and the ones that must be stopped" [Danh sách phát: Bài hát bạn cần biết và những bài hát bạn phải dừng nghe lại]. Spin (bằng tiếng Anh). Quyển 18 số 11. tháng 11 năm 2002. tr. 129. ISSN 0886-3032. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  48. ^ Keeps, David A. (tháng 10 năm 2004). "Pretty 'n' punk: Avril Lavigne tells what it's like for a driven young career woman who still wants to be a regular teenager" [Pretty 'n' punk: Avril Lavigne kể về cuộc sống của một phụ nữ trẻ đầy tham vọng nhưng vẫn muốn là một thiếu nữ bình thường]. W (bằng tiếng Anh). Quyển 33 số 10. Gale A123326593.
  49. ^ D'Souza, Nandini (tháng 3 năm 2007). "Avril blooms: once the reigning teen of punk, Avril Lavigne polishes up her look" [Avril nở rộ: từng là ngôi sao tuổi teen của dòng nhạc punk, Avril Lavigne ngày càng trau chuốt vẻ ngoài của mình]. W (bằng tiếng Anh). Quyển 36 số 3. Gale A160164592.
  50. ^ Gatti, Tom (ngày 26 tháng 6 năm 2004). "Wheels of fire; Arts" [Bánh xe lửa; Nghệ thuật]. The Times (bằng tiếng Anh). tr. 23. Gale A118714605.
  51. ^ Sullivan, Caroline (ngày 19 tháng 9 năm 2002). "Review: Pop: Avril Lavigne" [Đánh giá: Thể loại pop: Avril Lavigne]. The Guardian (bằng tiếng Anh). tr. 20. Gale A91753886.
  52. ^ a b Copsey, Robert (ngày 11 tháng 4 năm 2013). "Avril Lavigne's 7 best singles of all time" [7 đĩa đơn xuất sắc nhất mọi thời đại của Avril Lavigne] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  53. ^ a b Rowley, Glenn (ngày 20 tháng 6 năm 2024). "15 Avril Lavigne Songs That Prove She's The "Motherf—in' Princess" Of Pop-Punk" [15 bài hát của Avril Lavigne chứng minh cô ấy là "công chúa" của dòng nhạc pop punk] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  54. ^ Mortensa, Mala (ngày 23 tháng 3 năm 2021). "10 iconic riffs that you'll always recognize immediately" [10 đoạn riff mang tính biểu tượng mà bạn sẽ luôn nhận ra ngay lập tức]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  55. ^ Mortensa, Mala (ngày 3 tháng 6 năm 2021). "15 alternative songs that were essential for 2000s summer road trips" [15 bài hát alternative quan trọng cho những chuyến đi du lịch đường bộ mùa hè thập niên 2000]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  56. ^ Cox, Jamieson (ngày 16 tháng 12 năm 2018). "Review: Avril Lavigne – Let Go" [Đánh giá: Avril Lavigne – Let Go]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  57. ^ a b Brocklehurst, Harrison (ngày 11 tháng 11 năm 2021). "Attention rock chicks! Every Avril Lavigne single ranked from worst to best" [Xin chào các cô nàng nhạc rock! Mỗi đĩa đơn của Avril Lavigne được xếp hạng từ tệ nhất đến hay nhất]. The Tab (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  58. ^ a b c Uitti, Jacob (ngày 20 tháng 12 năm 2022). "The Top 10 Avril Lavigne Songs" [Top 10 bài hát của Avril Lavigne]. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  59. ^ Scarlett, Elizabeth (ngày 28 tháng 2 năm 2022). "These 10 emo bangers will resurrect happy memories of your misspent youth" [10 bản nhạc emo này sẽ khơi dậy những kỷ niệm vui vẻ của tuổi trẻ đã lãng phí của bạn]. Classic Rock (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  60. ^ a b Rampton, Mike (ngày 2 tháng 2 năm 2020). "A deep dive into Avril Lavigne's Sk8er Boi video" [Một cái nhìn sâu sắc vào video Sk8er Boi của Avril Lavigne]. Kerrang! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  61. ^ a b Bezer, Terry (ngày 28 tháng 1 năm 2025). "15 Iconic Pop-Punk Songs That Define The Genre" [15 bài hát pop punk mang tính biểu tượng định nghĩa thể loại này]. Screen Rant (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  62. ^ "Dixie Chicks Make Their 'Home' On Top" [Dixie Chicks đưa ‘Home’ của họ lên đầu bảng xếp hạng]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 9 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  63. ^ a b "Avril Lavigne Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  64. ^ a b "Avril Lavigne Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  65. ^ "Nielsen Broadcast Data Systems: BDSCertified Spin Awards November 2002 Recipients" [Hệ thống dữ liệu phát sóng của Nielsen: Người nhận giải thưởng BDSCertified Spin tháng 11 năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 114 số 51. ngày 21 tháng 12 năm 2002. tr. 5. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  66. ^ a b "Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  67. ^ a b "Chứng nhận video đĩa đơn Hoa Kỳ – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  68. ^ a b "Avril Lavigne Chart History (Canadian Digital Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  69. ^ a b c d Lwin, Nanda (2003). The Essential 2002 Chart Yearbook (bằng tiếng Anh). Music Data Canada. tr. 14, 47, 58. ISBN 1-896594-15-8.
  70. ^ a b "Chứng nhận đĩa đơn Canada – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  71. ^ a b "Australian-charts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  72. ^ a b "ARIA Charts – Accreditations – 2002 Singles" (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  73. ^ a b "Charts.nz – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  74. ^ a b "Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Radioscope. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025. Nhập Sk8er Boi trong mục "Search:".
  75. ^ a b "The Irish Charts – Search Results – Sk8 er Boi" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  76. ^ a b "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  77. ^ a b "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  78. ^ a b "Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  79. ^ a b "HR Top 20 Lista" (bằng tiếng Croatia). Croatian Radiotelevision. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  80. ^ a b "Nederlandse Top 40 – Avril Lavigne" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  81. ^ a b "Austriancharts.at – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  82. ^ a b "Ultratop.be – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  83. ^ a b "Italiancharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  84. ^ a b "Eurochart Hot 100 Singles" (PDF). Music & Media (bằng tiếng Anh). Quyển 21 số 2–3. ngày 11 tháng 1 năm 2003. tr. 20. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025. Xem cột last week.
  85. ^ a b "Arhiva romanian top 100 – Editia 11, saptamina 24.03-30.03, 2003" (bằng tiếng Romania). Romanian Top 100. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  86. ^ a b c Avril Lavigne; Francis Lawrence (ngày 20 tháng 8 năm 2002). "Sk8er Boi". Making the Video. Mùa 9. Tập 18 (bằng tiếng Anh). 25 phút. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2025.
  87. ^ Burlingame 2010, tr. 38–39.
  88. ^ a b "Pop star gives new life to old clothes" [Ngôi sao nhạc pop thổi sức sống mới vào quần áo cũ]. The Hour (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 3 năm 2003. tr. A2. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  89. ^ "Fan poll: 5 best 2000s music videos" [Cuộc bình chọn của người hâm mộ: 5 video âm nhạc xuất sắc nhất thập niên 2000]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 11 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  90. ^ "The Year in Review: After the Impact" [Nhìn lại năm: Sau tác động]. CMJ New Music Report (bằng tiếng Anh). Quyển 74 số 795. ngày 30 tháng 12 năm 2002. tr. 35. ISSN 0890-0795. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  91. ^ Weingarten, Christopher R. (ngày 9 tháng 9 năm 2002). "Avril Lavigne falls for "Sk8r Boi" (spelling-be-damned!)" [Avril Lavigne phải lòng "Sk8r Boi" (chính tả tệ thật!)]. CMJ New Music Report (bằng tiếng Anh). Quyển 73 số 779. tr. 41. ISSN 0890-0795. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  92. ^ "Avril Lavigne Video Premiere Starts 08.27.02" [Video âm nhạc của Avril Lavigne bắt đầu công chiếu từ ngày 27 tháng 8 năm 2002] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  93. ^ Gardner, Elysa (ngày 24 tháng 5 năm 2004). "Avril: Adult, but still herself" [Avril: Trưởng thành, nhưng vẫn là chính mình]. USA Today (bằng tiếng Anh). tr. 1D. Gale A133426579.
  94. ^ a b "2003 Video Music Awards" [Giải Video âm nhạc của MTV năm 2003] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  95. ^ "It's the Best Of The Decade – as voted for by you!" [Đây là tác phẩm xuất sắc nhất của thập kỷ – do chính bạn bình chọn!] (bằng tiếng Anh). BT Vision. ngày 1 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  96. ^ D'Angelo, Joe (ngày 29 tháng 8 năm 2002). "Eminem Takes Home Most Moonmen From Video Music Awards" [Eminem giành được nhiều giải thưởng nhất từ Giải Video âm nhạc] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  97. ^ Lisi, Jon (ngày 29 tháng 9 năm 2014). "How Women Dominated Pop Music in the '00s" [Phụ nữ thống trị nhạc pop như thế nào vào thập niên 2000]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  98. ^ a b c Burlingame 2010, tr. 40.
  99. ^ "The BRITs 2003" [Lễ trao giải BRIT năm 2003] (bằng tiếng Anh). Giải Brit. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  100. ^ Empire, Kitty (ngày 16 tháng 3 năm 2003). "Mean Lavigne" [Có nghĩa là Lavigne]. The Observer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  101. ^ Price, Deborah Evans (ngày 22 tháng 5 năm 2004). "Avril Goes Back To Basics" [Avril quay lại với những điều cơ bản]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 116 số 21. tr. 1, 60. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  102. ^ Sablan, Niño Mark M. (ngày 6 tháng 4 năm 2005). "Loving Lavigne" [Yêu thích Lavigne]. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). tr. D2. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  103. ^ Ramirez, Miriam (ngày 30 tháng 4 năm 2008). "'Best Damn' show ... no joke" [Show diễn 'Best Damn' ... không đùa]. The Monitor (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  104. ^ Perusse, Bernard (ngày 26 tháng 10 năm 2011). "Concert review: Avril Lavigne at the Bell Centre; Oct. 25, 2011" [Đánh giá buổi hòa nhạc: Avril Lavigne tại Bell Centre; ngày 25 tháng 10 năm 2011]. The Gazette (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  105. ^ Caramanica, Jon (ngày 4 tháng 12 năm 2013). "A By-The-Numbers Rebel" [Một cô gái nổi loạn theo từng con số]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  106. ^ Darus, Alex (ngày 16 tháng 9 năm 2019). "Avril Lavigne kicks off first tour in five years with career-spanning setlist" [Avril Lavigne khởi động chuyến lưu diễn đầu tiên sau 5 năm với danh sách bài hát trải dài cả sự nghiệp]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  107. ^ Kelly, Hana (ngày 7 tháng 5 năm 2023). "Review: Pop punk royalty Avril Lavigne brought nostalgia to the O2 Apollo this coronation weekend" [Đánh giá: Ngôi sao nhạc pop punk Avril Lavigne đã mang nỗi nhớ về O2 Apollo vào cuối tuần lễ đăng quang này]. Manchester Evening News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  108. ^ "See the setlist from the first night of Avril Lavigne's Greatest Hits tour" [Xem danh sách tiết mục trong đêm đầu tiên của chuyến lưu diễn Greatest Hits của Avril Lavigne]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 5 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  109. ^ "Cascada: A torrent of pop talent" [Cascada: Một dòng chảy tài năng nhạc pop]. Music Week (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 1 năm 2008. tr. 23. Gale A173740276.
  110. ^ Moran, Justin (ngày 25 tháng 6 năm 2018). "This Avril Lavigne 'Sk8er Boi' Cover Will Make You Scream" [Bản cover 'Sk8er Boi' của Avril Lavigne này sẽ khiến bạn hét lên]. Paper (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  111. ^ Neale, Matthew; và đồng nghiệp (ngày 14 tháng 5 năm 2019). "Seven Performances That Defined The Great Escape 2019" [Bảy màn trình diễn định nghĩa The Great Escape 2019]. Clash (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  112. ^ Smith-Engelhardt, Joe (ngày 30 tháng 3 năm 2020). "Watch Machine Gun Kelly slammin' on his guitar to classic Avril Lavigne riff" [Xem Machine Gun Kelly slam đoạn riff kinh điển của Avril Lavigne bằng guitar của mình]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  113. ^ Ziwei, Puah (ngày 19 tháng 2 năm 2022). "Hear Hueningkai of TXT cover Avril Lavigne's 'Sk8er Boi'" [Nghe Hueningkai của TXT cover ca khúc ‘Sk8er Boi’ của Avril Lavigne]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  114. ^ Brannigan, Paul (ngày 27 tháng 1 năm 2023). "Watch K-Pop star Yoon from STAYC cover Avril Lavigne's Sk8er Boi" [Xem ngôi sao K-Pop Yoon từ STAYC cover ca khúc Sk8er Boi của Avril Lavigne]. Classic Rock (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  115. ^ Bardhan, Ashley (ngày 21 tháng 1 năm 2021). "Review: Ashnikko – Demidevil" [Đánh giá: Ashnikko – Demidevil]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  116. ^ Bucksbaum, Sydney (ngày 22 tháng 10 năm 2023). "From Frozen to 'Iron Man,' all the best covers performed at When We Were Young festival" [Từ Frozen đến 'Iron Man', tất cả các bản cover hay nhất được trình diễn tại lễ hội When We Were Young]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  117. ^ D'Angelo, Joe (ngày 28 tháng 5 năm 2003). "Avril's Tale Of Sk8er Boi Meets Girl Optioned For Movie" [Câu chuyện của Avril về Sk8er Boi gặp cô gái được chọn để làm thành phim] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  118. ^ Serra, Maria (ngày 14 tháng 1 năm 2021). "10 times alternative artists unexpectedly appeared on children's shows" [10 lần nghệ sĩ alternative bất ngờ xuất hiện trong các chương trình thiếu nhi]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  119. ^ Romanello, Elena (ngày 20 tháng 9 năm 2006). "Dossier Cold Case, casi irrisolti" [Hồ sơ Cold Case, các vụ án chưa được giải quyết]. Sherlock Magazine (bằng tiếng Ý). tr. 5. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  120. ^ Sepinwall, Alan (ngày 14 tháng 7 năm 2008). "Generation Kill, "Get Some": Po-lice that moo-stash!!!!" [Generation Kill, "Get Some": Cảnh sát bắt giữ bọn moo-stash đó!!!!] (bằng tiếng Anh). NJ.com. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  121. ^ "Elite Beat Agents: Gameplay" [Elite Beat Agents: Lối chơi]. IGN (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  122. ^ "METALLICA, MÖTLEY CRÜE, JUDAS PRIEST Tracks Featured In 'Rock Revolution' Video Game" [Các ca khúc của METALLICA, MÖTLEY CRÜE, JUDAS PRIEST xuất hiện trong trò chơi điện tử 'Rock Revolution']. Blabbermouth.net (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  123. ^ Antista, Chris (ngày 13 tháng 2 năm 2007). "SingStar Pop jams on PS2" [Danh sách bài hát SingStar Pop trên PS2]. GamesRadar+ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  124. ^ "Sk8er Boi by Avril Lavigne" [Sk8er Boi bởi Avril Lavigne]. Just Dance+ (bằng tiếng Anh). Ubisoft. ngày 27 tháng 3 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2025 – qua YouTube.
  125. ^ Abate 2011, tr. 18.
  126. ^ a b Cheung, Nadine (ngày 15 tháng 1 năm 2011). "Top 10 Avril Lavigne Songs" [Top 10 bài hát của Avril Lavigne] (bằng tiếng Anh). AOL Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  127. ^ a b Hay, Carla; LeBlanc, Larry (ngày 12 tháng 7 năm 2003). "Irreverance marks MMVAs" [Sự thiếu tôn trọng xuất hiện tại giải thưởng MMVAs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Quyển 115 số 28. tr. 62. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025 – qua Google Books.
  128. ^ "Adam Sandler, Mike Myers, Amanda Bynes, Frankie Muniz, Jennifer Love Hewitt, Jackie Chan, Spongebob Squarepants, Tony Hawk, Michelle Kwan, B2K, Los Angeles Lakers and More Score at Nickelodeon's 16th Annual Kids' Choice Awards" [Adam Sandler, Mike Myers, Amanda Bynes, Frankie Muniz, Jennifer Love Hewitt, Jackie Chan, Spongebob Squarepants, Tony Hawk, Michelle Kwan, B2K, Los Angeles Lakers và nhiều người khác ghi điểm tại Giải Sự lựa chọn của trẻ em thường niên lần thứ 16 của kênh Nickelodeon] (bằng tiếng Anh). Giải Sự lựa chọn của trẻ em của kênh Nickelodeon. ngày 12 tháng 4 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  129. ^ "Hilary Duff Sweeps Top Honors in the 2003 Radio Disney Music Awards" [Hilary Duff quét sạch hạng mục hàng đầu tại giải thưởng Âm nhạc của Radio Disney năm 2003] (PDF) (bằng tiếng Anh). Radio Disney. ngày 23 tháng 8 năm 2006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  130. ^ "2003 Teen Choice Awards Nominees" [Những người được đề cử giải Sự lựa chọn của giới trẻ năm 2003]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 6 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  131. ^ I'm with You (Ghi chú đĩa đơn DVD Hoa Kỳ) (bằng tiếng Anh). Arista Records. ngày 11 tháng 3 năm 2003. ASIN B00008K7AI. 82876-51024-9.{{Chú thích ghi chú album}}: Quản lý CS1: năm (liên kết)
  132. ^ Sk8er Boi (PDF) (Ghi chú đĩa đơn CD Úc) (bằng tiếng Anh). Arista Records, BMG. ngày 28 tháng 10 năm 2002. 74321 977852. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  133. ^ Sk8er Boi (Ghi chú đĩa đơn CD châu Âu tăng cường) (bằng tiếng Anh). Arista Records, BMG. 2002. 74321 979782. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2003. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  134. ^ Sk8er Boi (PDF) (Ghi chú đĩa đơn CD Anh Quốc) (bằng tiếng Anh). Arista Records, BMG. ngày 16 tháng 12 năm 2002. tr. 27. 74321 980702. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  135. ^ Sk8er Boi (PDF) (Ghi chú đĩa đơn cassette Anh Quốc) (bằng tiếng Anh). Arista Records, BMG. ngày 16 tháng 12 năm 2002. tr. 27. 74321 980704. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2025.
  136. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  137. ^ "Oficiální Česká Hitparáda - Pro týden 4/2003" (bằng tiếng Séc). IFPI ČR. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  138. ^ "Danishcharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  139. ^ "Lescharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  140. ^ "Musicline.de – Avril Lavigne Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  141. ^ "Top 50 Singles Εβδομάδα 29/03 – 04/04" (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025. Xem cột Best.
  142. ^ "Dutchcharts.nl – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  143. ^ "Norwegiancharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  144. ^ "Swedishcharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  145. ^ "Swisscharts.com – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Đức). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  146. ^ "Avril Lavigne Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  147. ^ "ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Singles 2002" (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  148. ^ "Canada's Top 200 Singles of 2002 (Part 2)" (bằng tiếng Anh). Jam!. ngày 14 tháng 1 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  149. ^ "Top 100 top played radio tracks in Canada in 2002" (bằng tiếng Anh). Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  150. ^ "Top 100 Songs of 2002" (bằng tiếng Anh). Raidió Teilifís Éireann. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  151. ^ "Chartsplus Official UK Year-end 2002" (PDF) (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  152. ^ "Top 100 Songs of 2002 - Billboard Year End Charts" (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  153. ^ "Most-Played Adult Top 40 Songs of 2002" (PDF). Airplay Monitor (bằng tiếng Anh). Quyển 10 số 51. ngày 20 tháng 12 năm 2002. tr. 16. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  154. ^ "Most-Played Mainstream Top 40 Songs of 2002" (PDF). Airplay Monitor (bằng tiếng Anh). Quyển 10 số 51. ngày 20 tháng 12 năm 2002. tr. 12. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  155. ^ "ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Singles 2003" (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  156. ^ "Jahreshitparade 2003" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  157. ^ "Jaaroverzichten 2003" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  158. ^ "Rapports Annuels 2003" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  159. ^ "Top 100 Songs of 2003" (bằng tiếng Anh). Raidió Teilifís Éireann. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  160. ^ "Top 100–Jaaroverzicht van 2003" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  161. ^ "Jaaroverzichten – Single 2003" (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  162. ^ "Romanian Top 100 – Top of the Year 2003" (bằng tiếng Romania). Romanian Top 100. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  163. ^ "Årslista Singlar, 2003" (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  164. ^ "Chartsplus Official UK Year-end 2003" (PDF) (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  165. ^ "Most-Played Mainstream Top 40 Songs of 2003" (PDF). Airplay Monitor (bằng tiếng Anh). Quyển 11 số 51. ngày 19 tháng 12 năm 2003. tr. 14. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  166. ^ "Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  167. ^ "Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Avril Lavigne – Sk8er Boi" (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.
  168. ^ "Gold-/Platin-Datenbank (Avril Lavigne; 'Sk8er Boi')" (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2025.

Nguồn

sửa

Liên kết ngoài

sửa