Zlata Leonidivna Ognievich (tiếng Ukraina: Злата Леонідівна Оґнєвіч, đã Latinh hoá: Zlata Leonidivna Ognievich; tên khai sinh là Inna Leonidivna Bordiuh [Інна Леонідівна Бордюг]; sinh ngày 12 tháng 1 năm 1986) là một ca sĩ và cựu chính khách Ukraina. Cô đại diện cho Ukraina tại Eurovision Song Contest 2013Malmö với bài hát "Gravity", và đạt thứ hạng 3 chung cuộc. Ognievich cũng từng tham gia vòng loại toàn quốc để giành quyền đại diện cho Ukraina tại cuộc thi trong các năm 20102011.

Zlata Leonidivna Ognievich
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhInna Leonidivna Bordiuh
Sinh12 tháng 1, 1986 (39 tuổi)
Kryvyi Rih, CHXHCNXV Ukraina, Liên Xô
Nguyên quánSudak, Ukraina
Thể loạiPop
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • diễn viên
Nhạc cụGiọng hát
Năm hoạt động2010–nay
Websitezlatao.com
Chức vụ
Nhiệm kỳ27 tháng 11 năm 2014 – 10 tháng 11 năm 2015
Vị tríĐảng Cấp tiến, số 4[1]

Năm 2014, Ognievich được bầu vào Verkhovna Rada với tư cách đảng viên đảng Cấp tiến trong cuộc bầu cử quốc hội.[2][3] Cô đã rút khỏi quốc hội sau một năm, với lý do phản đối tình trạng tham nhũng mà cô đã chứng kiến.[4] Cô đã lên tiếng ủng hộ các lực lượng Ukraina trong thời kỳ bất ổn thân Nga năm 2014 ở Ukraina, và tuyên bố rằng cô sẽ không chấp nhận quốc tịch Nga sau khi Liên bang Nga sáp nhập Krym, nơi cô từng lớn lên.

Đầu đời

sửa

Ognievich sinh năm 1986 tại Kryvyi Rih, nhưng cô đã chuyển tới Murmansk ngay sau đó để thuận tiện cho công việc của cha cô. Cô là người gốc Ý và Serbia;[5][6] Tổ tiên bên ngoại của cô là người Ý còn tổ tiên bên nội của cô là người Serbia.[7] Cô lớn lên tại thành phố Sudak nằm trên bán đảo Krym.[8][nb 1] Năm 18 tuổi, Ognievich chuyển đến sống tại Kyiv để theo đuổi con đường đào tạo âm nhạc chuyên sâu hơn, và hiện nay cô vẫn sống tại đây.[10][11] Ognievich tốt nghiệp Trường đại học Âm nhạc Rheingold M. Glière tại Kyiv.[12] Từ năm học thứ ba tại Rheingold, cô đã bắt đầu cộng tác với các ban nhạc sống và thực hiện công việc quảng bá của riêng mình.[11]

Ognievich đã thừa nhận trong các cuộc phỏng vấn rằng cô đã sống ở "nhiều thành phố và quốc gia".[13][14]

Sự nghiệp âm nhạc

sửa

Ognievich là một nghệ sĩ độc tấu của Đoàn hát múa trực thuộc Lực lượng vũ trang Ukraina.[12]

2010: Eurovision Song Contest 2010

sửa

Năm 2010, Ognievich lần đầu tiên tham gia vòng loại toàn quốc với mong muốn đại diện cho nước nhà tại Eurovision Song Contest. Cô đã trình diễn bài hát "Tiny Island". Bài hát xếp thứ hạng 5 chung cuộc với 30 điểm.

2010–2011: Eurovision Song Contest 2011

sửa

Năm 2011, cô lần thứ hai tham gia vòng loại toàn quốc để tìm ra người đại diện cho Ukraina tại cuộc thi. Cô đã lựa chọn trình bày bài hát "The Kukushka", được viết lời bằng tiếng Ukraina. Phần trình diễn của cô đã đạt được thứ hạng nhì chung cuộc.

Do những phản hồi tiêu cực của khán giả về thủ tục bỏ phiếu trong trận chung kết, một trận chung kết khác đã được tổ chức lại vào ngày 3 tháng 3 năm 2011.[15] Tuy vậy, Jamala và Ognievich đã tuyên bố rút khỏi trận chung kết lần thứ 2 từ trước khi sự kiện này được lên kế hoạch tổ chức, và Mika Newton đã trở thành gương mặt đại diện cho Ukraina tại cuộc thi năm đó.[16][17]

2012–2014: Eurovision Song Contest 2013 và Junior Eurovision

sửa
 
Zlata Ognievich in the Eurovision Song Contest 2013

Vào ngày 23 tháng 12 năm 2012, Ognievich lần thứ ba tham gia vòng loại toàn quốc để nhắm tới tham dự Eurovision Song Contest. Cô đã trình diễn bài hát "Gravity" tại sự kiện vòng loại toàn quốc Evrobachennya 2013 – Natsionalyni vidbir. Sau khi nhận được điểm tối đa qua hai vòng bầu chọn qua truyền hình và vòng chấm điểm của ban giám khảo, Ognievich đã giành được quyền đại diện cho Ukraina tại Eurovision Song Contest 2013 tại Malmö, Thụy Điển.[18]

Tại cuộc thi, Ukraina giành được quyền đi tiếp khi xếp thứ hạng 3 trên 16 tiết mục và ghi được 140 điểm trong trận bán kết 1 diễn ra vào ngày 14 tháng 5 năm 2013. Trong trận chung kết, Ognievich và bài hát "Gravity" xếp thứ hạng ba, với 214 điểm và nhận được 12 điểm từ Armenia, Azerbaijan, Belarus, Croatia và Moldova.[19]

 
Ognievich và Tymur Valeriiovych Miroshnychenko trong vai trò người dẫn chương trình Junior Eurovision Song Contest 2013 ở Kyiv

Ognievich đảm nhiệm vai trò người dẫn chương trình của cuộc thi Junior Eurovision Song Contest 2013 diễn ra vào ngày 30 tháng 11 bên cạnh Tymur Valeriiovych Miroshnychenko.[20] Ognievich là người công bố kết quả vòng bỏ phiếu của Ukraina tại Eurovision Song Contest 2014.[21] Tháng 8 năm 2014, Ognievich phát hành một bản quốc ca Ukraina "Shche ne vmerla Ukrayina" do cô thu âm.[22]

2023: Eurovision Song Contest 2023

sửa

Tại vòng chung kết Eurovision Song Contest 2023 diễn ra vào ngày 13 tháng 5 năm 2023, Ognievich là người phát ngôn của ban giám khảo quốc gia Ukraina.[23]

Sự nghiệp chính trị

sửa

Trong cuộc bầu cử quốc hội Ukraina năm 2014 được tổ chức vào ngày 26 tháng 10, Ognievich là ứng cử viên với tư cách đảng viên đảng Cấp tiến.[3] Kết quả của cuộc bầu cử, đảng của cô giành được 22 ghế và cô trở thành nghị sĩ quốc hội.[2] Tại quốc hội, cô chú trọng vào các vấn đề về văn hóa và quyền tác giả.[24][25] Cô đã tham dự 57% các phiên họp quốc hội trong nhiệm kỳ của mình.[26]

Ngày 10 tháng 11 năm 2015, Ognievich đã đệ trình thư từ chức lên quốc hội.[4] Trong bài phát biểu từ chức trước quốc hội cùng ngày, cô nêu rõ; "Giờ đây tôi thấy rằng khi văn hóa không tồn tại, việc điều khiển và thao túng mọi người sẽ dễ dàng hơn. Đó là lý do tại sao khi điều này xảy ra, với tư cách là một nhà hoạt động văn hóa, tôi không thể giúp ích gì cho quốc hội...".[4] Trong bài phát biểu, cô cũng cáo buộc các đại biểu khác đang hoạt động vì lợi ích của những người vận động hành lang chứ không phải vì lợi ích của công chúng.[26]

Đời tư

sửa

Năm tháng sau sự kiện Liên bang Nga sáp nhập Krym diễn ra vào tháng 3 năm 2014,[nb 2] Ognievich đã gọi việc sáp nhập là "một bi kịch rất đau đớn" và tuyên bố rằng cha mẹ cô, những người tiếp tục sống ở Krym, sẽ không chấp nhận quốc tịch Nga.[10]

Trong sự kiện xung đột thân Nga năm 2014 ở Ukraina, cô cùng với Anastasia Kostyantynivna Prikhodko đã tổ chức quyên góp tiền cho Lữ đoàn Cơ giới Cận vệ 72 trực thuộc Lực lượng Bộ binh Ukraina.[28]

Danh sách đĩa nhạc

sửa

Đĩa đơn

sửa
Tựa đề Năm Thứ hạng
cao nhất
Album
UKR NL
[29]
"Tiny Island" 2010 Đĩa đơn không nằm trong album
"Pristrast'" 2010
"The Kukushka" 2011 1
"Gravity" 2013 1 50
"Za Lisami Gorami" 2013
"Ice and Fire"
(với Eldar Gasimov)
2014
"Za litom, za vesnoyu" 2016
"Tantsiuvati" 2017 3
"Do Mene" 2018
"Янгол" ("Angel")[30] 2023
"Кохаю" 2024
"—" biểu thị bản phát hành không được xếp hạng hoặc không/chưa được phát hành.

Ghi chú

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ “People's Deputy of Ukraine of the VIII convocation”. Official portal (bằng tiếng Ukraina). Verkhovna Rada of Ukraine. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ a b Poroshenko Bloc to have greatest number of seats in parliament Lưu trữ 10 tháng 11 năm 2014 tại Wayback Machine, Ukrainian Television and Radio (8 November 2014)
    People's Front 0.33% ahead of Poroshenko Bloc with all ballots counted in Ukraine elections – CEC Lưu trữ 12 tháng 11 năm 2014 tại Wayback Machine, Interfax-Ukraine (8 November 2014)
    Poroshenko Bloc to get 132 seats in parliament – CEC Lưu trữ 4 tháng 4 năm 2019 tại Wayback Machine, Interfax-Ukraine (8 November 2014)
  3. ^ a b CEC registers lists of another 16 parties, a total of 29 parties to take part in election Lưu trữ 10 tháng 11 năm 2014 tại Wayback Machine, Interfax Ukraine (27.09.2014)
    (bằng tiếng Ukraina) Party list of Radical Party – CEC Lưu trữ 19 tháng 10 năm 2017 tại Wayback Machine, galinfo (27 September 2014)
  4. ^ a b c Radical Party MP Zlata Ohnevych renounces lawmaking powers Lưu trữ 23 tháng 11 năm 2015 tại Wayback Machine, Interfax-Ukraine (10 November 2015)
    MP from the Radical Party faction, Zlata Ognevich has submitted a letter of resignation to parliament Lưu trữ 1 tháng 8 năm 2017 tại Wayback Machine, Ukrinform (10 November 2015)
  5. ^ “Злата Огнєвіч зізналася, що насправді народилася не в Росії: "Я про це дізналася згодом". ТСН.ua. Truy cập 4 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ Ukraine Lưu trữ 1 tháng 11 năm 2020 tại Wayback Machine bbc.co.uk
  7. ^ Zlata Ognevich Lưu trữ 27 tháng 11 năm 2020 tại Wayback Machine eurovision.tv
  8. ^ Злата ОГНЄВІЧ: «Я зі свічкою біля Міки Ньютон не стояла...» Zlata OHNYEVICH "I with a candle next to Mika Newton was not ..." Lưu trữ 23 tháng 3 năm 2013 tại Wayback Machine, Vysoky Zamok (7 June 2011)
  9. ^ A History of Ukraine: The Land and Its Peoples Lưu trữ 7 tháng 4 năm 2023 tại Wayback Machine by Paul Robert Magocsi, University of Toronto Press, 2010, ISBN 1442610212 (page 563/564 & 722/723)
  10. ^ a b (bằng tiếng Ukraina) Zlata sang in Odesa for sailors Lưu trữ 4 tháng 3 năm 2016 tại Wayback Machine, 1+1 (29 July 2014)
  11. ^ a b (bằng tiếng Ukraina) Ohnyevich remembered as a sacrifice for her own clothing Lưu trữ 1 tháng 8 năm 2017 tại Wayback Machine, Tablo ID (29 August 2014)
  12. ^ a b (bằng tiếng Ukraina) Злата ОГНЄВІЧ: «Я зі свічкою біля Міки Ньютон не стояла...» Zlata OHNYEVICH "I with a candle next to Mika Newton was not ..." Lưu trữ 23 tháng 3 năm 2013 tại Wayback Machine, Vysoky Zamok (7 June 2011)
  13. ^ (bằng tiếng Ukraina) Злата Огневич: Хочу гідно виступити на "Crimea Music Fest" (інтерв'ю) Zlata Ohnevych: Want to adequately address the "Crimea Music Fest" (interview) Lưu trữ 1 tháng 8 năm 2017 tại Wayback Machine, Young Radio (27 August 2011)
  14. ^ (bằng tiếng Ukraina) Злата Огневич: «Не вважаю Ані Лорак своїм конкурентом» Zlata Ohnevych: "I do not think Ani Lorak is my rival" , Anturazh Magazine (14 August 2011)
  15. ^ Busa, Alexandru (26 tháng 2 năm 2011). “UPD Ukraine: National final on March 3rd”. ESCToday. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2011.
  16. ^ Hondal, Victor (1 tháng 3 năm 2011). “Ukraine: Jamala withdraws from national final”. EscToday.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  17. ^ Busa, Alexandru (1 tháng 3 năm 2011). “Ukraine: Zlata Ognevich withdraws as well”. EscToday.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  18. ^ Omelyanchuk, Olena (23 tháng 12 năm 2012). “Zlata Ognevich is a happy winner in Ukraine”. Eurovision.tv. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2013.
  19. ^ “Eurovision Song Contest 2013 Grand Final”. Eurovision.tv. 18 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2013.
  20. ^ “Eurovision Ukraine: Zlata Ognevich to host 2013 Junior Eurovision”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2013.
  21. ^ “Ukraine: Zlata Ognevich To Announce The Ukrainian Vote – Eurovoix”. 7 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
  22. ^ (bằng tiếng Ukraina) Ohnyevich recorded his own version of the anthem of Ukraine. AUDIO Lưu trữ 3 tháng 9 năm 2014 tại Wayback Machine, Tablo ID (27 August 2014)
  23. ^ Stella, Nathan (29 tháng 4 năm 2023). “Zlata Ognevich will be the Ukrainian Spokesperson for Eurovision 2023!”. ESC Bubble. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  24. ^ (bằng tiếng Ukraina) Zlata Ognevich on her first day in the Rada Lưu trữ 7 tháng 8 năm 2016 tại Wayback Machine, Televiziyna Sluzhba Novyn (9 September 2014)
  25. ^ a b Singer Ognevich resigns as MP; alleges colleagues serve clans, not public Lưu trữ 15 tháng 12 năm 2015 tại Wayback Machine, Kyiv Post (12 November 2015)
  26. ^ Gutterman, Steve (18 tháng 3 năm 2014). “Putin signs Crimea treaty, will not seize other Ukraine regions”. Reuters.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2014.
  27. ^ (bằng tiếng Ukraina) Zlata Ognevich first talked about becoming a MP Lưu trữ 12 tháng 12 năm 2018 tại Wayback Machine, TSN (17 September 2014)
  28. ^ Hung, Steffen. “Discografie Zlata Ognevich”. Dutch Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2013.
  29. ^ “New music this week (part 1): Songs from Reiley, Sam Ryder, Elena Tsagrinou and more”. Wiwibloggs. 28 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2023.

Liên kết ngoài

sửa
Tiền nhiệm:
Gaitana
với "Be My Guest"
Ukraina tại Eurovision Song Contest
2013
Kế nhiệm:
Mariya Yaremchuk
với "Tick-Tock"
Tiền nhiệm:
  Kim-Lian van der MeijEwout Genemans
Người dẫn chương trình Junior Eurovision Song Contest
2013
Kế nhiệm:
  Moira Delia