Viện Hàn lâm Khoa học Úc
Viện hàn lâm Khoa học Úc (tiếng Anh: Australian Academy of Science, viết tắt là AAS) được thành lập năm 1954 bởi một nhóm người Úc lỗi lạc, trong đó có Hội viên người Úc của Hội Hoàng gia Luân Đôn.[1] Chủ tịch đầu tiên của Viện hàn lâm này là Sir Mark Oliphant.
Viện hàn lâm Khoa học Úc | |
---|---|
Tên viết tắt | AAS |
Thành lập | 1954 |
Loại | Viện hàn lâm quốc gia |
Trụ sở chính | Canberra, Úc |
Vùng phục vụ | Úc |
Thành viên | ~450 viện sĩ |
Chủ tịch | Giáo sư John Shine |
Chủ quản | Nhà nước |
Trang web | www.science.org.au |
Viện hàn lâm này được thành lập theo khuôn mẫu Hội Hoàng gia Luân Đôn và hoạt động trong khuôn khổ Royal Charter (Hiến chương hoàng gia);[1] như vậy Viện là một cơ quan độc lập, nhưng có sự chấp thuận của chính phủ.
Trụ sở Viện hàn lâm Khoa học Úc nằm trong tòa nhà Shine Dome ở thành phố Canberra. Viện là thành viên quốc gia của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC).[2]
Mục dích của Viện là thúc đẩy khoa học tiến triển, thông qua một loạt hoạt động, trong đó có việc khuyến khích và công nhận những đóng góp xuất sắc vào khoa học. Viện đã xác định 4 lãnh vực chương trình chủ yếu:
- Công nhận những đóng góp xuất sắc vào khoa học
- Giáo dục và nhận thức công cộng
- Chính sách khoa học
- Quan hệ quốc tế
Nguồn gốc
sửaHội đồng Nghiên cứu quốc gia Úc
sửa"Hội đồng Nghiên cứu quốc gia Úc" được thành lập năm 1919 nhằm mục đích đại diện nước Úc trong "Hội đồng Nghiên cứu quốc tế". Hội đồng ngưng hoạt động năm 1954, và được thay thế bởi "Viện hàn lâm Khoa học Úc".[3]
Tòa nhà Shine Dome
sửaTòa nhà Shine Dome (trước đây gọi là Becker House) là một điểm mốc nổi tiếng của thành phố Canberra, có cấu trúc bất thường, và thường được coi như "The Martian Embassy" (Tòa đại sứ của người Sao Hỏa), một sự ám chỉ về hình dạng tòa nhà và về sự kiện vì là thủ đô của Úc, nên thành phố Canberra là nơi chứa các tòa đại sứ nước ngoài.[4][5] Tòa nhà này do kiến trúc sư Roy Grounds thiết kế. Khi xây dựng hoàn thành vào năm 1959, mái vòm 45,75m đường kính của tòa nhà này là mái vòm lớn nhất nước Úc.
Ngày 1.12.1956, Ủy ban thiết kế tòa nhà của Viện hàn lâm Khoa học Úc họp ở Adelaide để xem xét các đồ án thiết kế do 6 kiến trúc sư nộp. Bản đồ án được chấp thuận có một mái vòm nặng 710 tấn bê tông cốt sắt, được chống đỡ bởi 16 cột chống mỏng. Lớp bê tông cốt sắt ở chân cột dày khoảng 60 cm, còn bên trên đầu vòm dày 10 cm. Chi phi xây dựng là 200.000 bảng Anh. Viên đá đầu tiên, được đặt ngày 2.5.1958 bởi thủ tướng Úc, Robert Menzies, nguyên là một phần của cột trụ của "Kính viễn vọng lớn của Melbourne" được xây dựng năm 1869 dưới sự giám sát của Hội Hoàng gia Luân Đôn và được chuyển giao cho Đài thiên văn Mount Stromlo trong thập niên 1940.
Tòa nhà này được đặt tên là "Becker House" vào năm 1962, theo tên của nhà từ thiện kiêm viện sĩ Sir Jack Ellerton Becker. Năm 2000, tòa nhà này được đặt tên lại để vinh danh viện sĩ John Shine, người đã tặng 1 triệu dollar để tân trang mái vòm.
Tòa nhà gồm 3 tầng lầu: tầng trệt gồm phòng chính dành cho khán thính giả của nhà hát có 156 ghế; "Phòng Jaeger" dành để hội họp và các hoạt động khác; "Phòng họp của hội đồng Becker" và các văn phòng; các tầng trên gồm một tầng lầu của nhà hát và thư viện Adolf Basser; còn các phòng ở tầng hầm dùng chứa các hồ sơ lưu trữ lịch sử khoa học Úc.
Các viện sĩ
sửaViện hàn lâm Khoa học Úc gồm khoảng 420 nhà khoa học hàng đầu của Úc. Các nhà khoa học được các đồng nghiệp của mình đánh giá là có những cống hiến đặc biệt cho kiến thức trong lĩnh vực của mình thì có thể được bầu vào Viện hàn lâm. Hai mươi viện sĩ mới có thể được bầu mỗi năm[6]
Không quá 2 viện sĩ có thể được bầu vào Viện mỗi 3 năm, dựa trên những đóp góp nổi bật vào khoa học bằng các phương tiện khác hơn là nghiên cứu cá nhân.
Một số ít nhà khoa học nước ngoài nổi tiếng có những kết nối đáng kể với khoa học Úc cũng được bầu làm viện sĩ thong tấn của Viện
Những viện sĩ sáng lập Viện
sửaKhi Viện hàn lâm Khoa học Úc được thành lập năm 1954, có 24 viện sĩ sáng lập:
Tên | Lãnh vực chuyên môn |
---|---|
Keith Edward Bullen | Toán học và Địa vật lý |
Frank Macfarlane Burnet | Vi khuẩn học và Miễn dịch học (đoạt giải Nobel) |
David Guthrie Catcheside | Di truyền học |
Thomas MacFarland Cherry | Toán học |
Ian Clunies Ross | Ký sinh vật học và Khoa học quản lý |
Edmund Alfred Cornish | Thống kê học |
John Eccles | Khoa học thần kinh (đoạt giải Nobel) |
Edwin Sherbon Hills | Địa chất học |
Leonard Huxley | Vật lý học |
Raymond James Wood Le Fèvre | Hóa học |
Max Rudolf Lemberg | Hóa sinh học |
Hedley Ralph Marston | Hóa sinh học |
Leslie Martin | Vật lý học |
David Forbes Martyn | Vật lý học |
Douglas Mawson | Địa chất học |
Alexander John Nicholson | Côn trùng học |
Mark Oliphant | Vật lý học |
Joseph Lade Pawsey | Vật lý vô tuyến và Thiên văn học |
James Arthur Prescott | Khoa học nông nghiệp |
David Rivett | Hóa học |
Thomas Gerald Room | Toán học |
Sydney Sunderland | Khoa học thần kinh |
Oscar Werner Tiegs | Động vật học |
Richard van der Riet Woolley | Thiên văn học |
. [ 4 ]
Các chủ tịch
sửa- Sir Mark Oliphant (1954–1957)
- Sir John Eccles (1957–1961)
- Sir Thomas Cherry (1961–1964)
- Sir Frank Macfarlane Burnet (1965–69)
- Dr David Martyn (1969–1970)
- Professor Dorothy Hill (1970)
- Sir Rutherford Robertson (1970–1974)
- Sir Geoffrey Badger (1974–1978)
- Dr Lloyd Evans (1978–1982)
- Professor Arthur Birch (1982–1986)
- Professor David Curtis (1986–1990)
- Professor David Craig (1990–1994)
- Sir Gustav Nossal (1994–1998)
- Professor Brian Anderson (1998–2002)
- Dr Jim Peacock (2002–2006)
- Professor Kurt Lambeck (2006–2010)
- Professor Suzanne Cory (2010–)
Các giải thưởng
sửaHàng năm Viện hàn lâm Khoa học Úc trao các huy chương sau đây:
- Huy chương Pawsey, cho một nhà Vật lý học trẻ;
- Huy chương Gottschalk, cho một nhà nghiên cứu Y học trẻ;
- Huy chương Frank Fenner cho một nhà Sinh học trẻ.
- Huy chương Ian William Wark & Lecture và Lloyd Rees Lecture, cho các nhà khoa học tạo sự liên kết giữa khoa học và công nghiệp;
- Huy chương Thomas Ranken Lyle, cho các nhà nghiên cứu Toán học và Vật lý học;
- Huy chương David P. Craig, cho các nhà nghiên cứu Hóa học;
- Huy chương Douglas Mawson & Lecture, Huy chương John Conrad Jaeger, Huy chương Haddon King, và Giải Dorothy Hill, cho các nhà nghiên cứu Khoa học Trái Đất;
- Huy chương Moran và Huy chương Hannan, cho Toán học.
Hình ảnh
sửa-
The Shine Dome viewed from the lawn of the National Film and Sound Archive.
-
The base of the dome sits in a pond surrounding the building.
-
The Shine Dome was awarded the Sir John Sulman Medal for Architectural Merit in 1959.
Xem thêm
sửaTham khảo
sửa- ^ a b “The Charter”. Australian Academy of Science. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2008.
- ^ ISC Membership. Membership Online Directory. ISC, 2020. Truy cập 01/04/2021.
- ^ Australian National Research Council (1919 - 1954), Encyclopedia of Australian Science, www.eoas.info
- ^ “Engineering feat stands test of time”. The Canberra Times. via HighBeam (cần đăng ký mua). ngày 2 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
- ^ Viện hàn lâm Khoa học Úc. “The Shine Dome - Australian Academy of Science”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Election policies and procedures”. Australian Academy of Science. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2012.
Liên kết ngoài
sửa