USS Toro (SS-422)
USS Toro (SS-422) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài họ Cá nóc hòm, cá mắt kính và cá cavallo.[1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, chỉ thực hiện được hai chuyến tuần tra và không đánh chìm được mục tiêu nào trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu xuất biên chế một thời gian ngắn vào năm 1946-1947, rồi tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1963, rồi bị bán để tháo dỡ vào năm 1965. Toro được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Tàu ngầm USS Toro (SS-422)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Toro (SS-422) |
Đặt tên theo | tên chung cho các loài cá nóc hòm, cá mắt kính và cá cavallo[1] |
Đặt hàng | 22 tháng 2, 1943 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2] |
Đặt lườn | 27 tháng 5, 1944[2] |
Hạ thủy | 23 tháng 8, 1944[2] |
Người đỡ đầu | bà Alan G. Kirk |
Nhập biên chế | 8 tháng 12, 1944[2] |
Xuất biên chế | 2 tháng 2, 1946[2] |
Tái biên chế | 13 tháng 5, 1947[2] |
Xuất biên chế | 11 tháng 3, 1963[2] |
Xóa đăng bạ | 1 tháng 4, 1963[2] |
Danh hiệu và phong tặng | 2 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Bán để tháo dỡ, tháng 4, 1965[2] |
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất) | |
Lớp tàu | lớp Tench[3] |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [3] |
Sườn ngang | 27 ft 4 in (8,33 m) [3] |
Mớn nước | 17 ft (5,2 m) [3] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m) [4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4] |
Vũ khí |
|
Thiết kế và chế tạo
sửaThiết kế
sửaLớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[6]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][7]
Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]
Chế tạo
sửaToro được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[8] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 27 tháng 5, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 8, 1944, được đỡ đầu bởi bà Alan G. Kirk, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 12, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân James D. Grant.[1][9][8]
Lịch sử hoạt động
sửaThế Chiến II
sửaSau khi hoàn tất việc trang bị, Toro tiến hành chạy thử máy và huấn luyện ngoài khơi các vùng biển Portsmouth, New Hampshire, Newport, Rhode Island và New London, Connecticut trước khi đi đến Key West, Florida vào ngày 11 tháng 2, 1945. Tại đây chiếc tàu ngầm đã phục vụ huấn luyện cho Trường Sonar Hạm đội, rồi khởi hành từ Key West vào ngày 28 tháng 2 để cùng tàu ngầm Bumper (SS-333) hướng sang vùng kênh đào Panama. Sau một tuần lễ huấn luyện tại đây, hai chiếc tàu ngầm tiếp tục hành trình vào ngày 15 tháng 3 để đi sang khu vực Thái Bình Dương, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 4. Toro tiếp tục huấn luyện trong thành phần Đội tàu ngầm 101 tại vùng biển Hawaii.[1][8]
Chuyến tuần tra thứ nhất
sửaCùng với tàu ngầm Billfish (SS-286), Toro xuất phát từ Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 4 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đi đến Saipan vào ngày 6 tháng 5 để tiếp thêm nhiên liệu và sửa chữa, rồi tiếp tục chuyến tuần tra từ ngày 10 tháng 5, đi đến khu vực hoạt động tìm kiếm và giải cứu được chỉ định về phía Nam Shikoku và phía Đông Kyūshū vào ngày 16 tháng 5. Chiếc tàu ngầm thường xuyên đụng độ với máy bay tuần tra đối phương, và đến ngày 18 tháng 5 đã dò thấy sóng radar phát ra từ một tàu ngầm đối phương, nên tìm cách tiếp cận để tấn công, nhưng mất dấu mục tiêu sau đó.[1][8]
Phần thưởng
sửaToro được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][9]
Tham khảo
sửaGhi chú
sửaChú thích
sửa- ^ a b c d e f Naval Historical Center. “Toro (SS-422)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
- ^ a b c d e f g h i Friedman 1995, tr. 285-304
- ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
- ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
- ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
- ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
- ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
- ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “Toro (SS-422)”. uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2024.
Thư mục
sửa- Naval Historical Center. “Toro (SS-422)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
- Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN 0-313-26202-0.
- Blair, Clay Jr. (1975). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Philadelphia: Lippincott. ISBN 0-397-00753-1.
- Friedman, Norman (1994). U.S. Submarines Since 1945: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 1-55750-260-9.
- Friedman, Norman (1995). U.S. Submarines Through 1945: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 1-55750-263-3.
- Gardiner, Robert; Chesneau, Roger (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Conway Maritime Press. ISBN 0-83170-303-2.
- Hinman, Charles R.; Campbell, Douglas E. (2019). The Submarine Has No Friends: Friendly Fire Incidents Involving U.S. Submarines During World War II. Syneca Research Group, Inc. ISBN 978-0-359-76906-3. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
- Lenton, H. T. (1973). American Submarines (Navies of the Second World War). New York: Doubleday & Co. ISBN 978-0385047616.
Liên kết ngoài
sửa