U-21 (tàu ngầm Đức) (1936)

U-21 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-21 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được bảy chuyến tuần tra và đánh chìm năm tàu buôn với tổng tải trọng 10.706 tấn, cũng như gây hư hại cho một tàu chiến 11.500 tấn.[2] Quay trở lại vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic, U-21 ngừng hoạt động năm 1944 và bị tháo dỡ để làm nguồn phụ tùng vào đầu năm 1945.

Tàu ngầm chị em U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-21
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 551
Đặt lườn 4 tháng 3, 1936
Hạ thủy 31 tháng 7, 1936
Nhập biên chế 3 tháng 8, 1936
Xuất biên chế 5 tháng 8, 1944
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 08 360
Chỉ huy:
  • Đại úy Kurt Freiwald
  • 18 tháng 7, 1935 – 3 tháng 10, 1937
  • Đại úy Werner Lott
  • tháng 9, 1936 – 31 tháng 3, 1937
  • Đại úy Wilhelm Ambrosius
  • 1937
  • Đại tá Erwin Sachs
  • 1937
  • Trung úy / Đại úy Fritz Frauenheim
  • 1 tháng 10 1937 – 6 tháng 1, 1940
  • Đại úy Wolf-Harro Stiebler
  • 6 tháng 1 – 28 tháng 7, 1940
  • Trung úy Hans Heidtmann
  • 1 tháng 8 – 20 tháng 12, 1940
  • Đại úy Ernst-Bernard Lohse
  • 21 tháng 12, 1940 – 18 tháng 5, 1941
  • Trung úy Karl-Heinz Herschleb
  • 19 tháng 5, 1941 – 3 tháng 1, 1942
  • Trung úy Hans-Heinrich Döhler
  • 4 tháng 1 – 24 tháng 9, 1942
  • Thiếu úy / Trung úy Hans-Ferdinand Geisler
  • 25 tháng 9, 1942 – 28 tháng 1, 1943
  • Trung úy Rudolf Kugelberg
  • 29 tháng 1, 1943 – 11 tháng 5, 1944
  • Trung úy Wolfgang Schwarzkopf
  • 12 tháng 5 – 5 tháng 8, 1944
Chiến dịch:
  • 7 chuyến tuần tra:
  • 1: 25 tháng 8 – 5 tháng 9, 1939
  • 2: 9 tháng 9 – 1 tháng 10 & 2 – 3 tháng 10, 1939
  • 3: 22 tháng 10 – 8 tháng 11, 1939
  • 4: 27 tháng 11 – 5 tháng 12, 1939
  • 5: 17 – 24 tháng 12, 1939
  • 6: 27 tháng 1 – 9 tháng 2, 1940
  • 7: 21 – 27 tháng 3 & 16 – 20 tháng 4, 1940
Chiến thắng:
  • 5 tàu buôn bị đánh chìm
    (10,706 GRT)
  • 1 tàu chiến bị hư hại
    (11.500 tấn)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]

U-21 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germaniawerft tại Kiel vào ngày 4 tháng 3, 1936,[1] hạ thủy vào ngày 31 tháng 7, 1936,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 3 tháng 8, 1936[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Kurt Freiwald.[1]

Lịch sử hoạt động

sửa

U-21 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được bảy chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh, đánh chìm năm tàu buôn với tổng tải trọng 10.706 tấn, cũng như gây hư hại cho một tàu chiến 11.500 tấn.[1][2]

Trong chuyến tuần tra thứ hai, vào ngày 17 tháng 9, 1939, tàu ngầm Anh HMS Ursula đã phóng một loạt năm quả ngư lôi tấn công U-21 tại Bắc Hải về phía Đông Bắc Berwick-Upon-Tweed, tất cà đều bị trượt. Trong chuyến tuần tra thứ ba, vào ngày 6 tháng 11, 1939, nó lại bị tàu ngầm Anh HMS Sealion tấn công với một loạt sáu quả ngư lôi, và cũng không trúng đích.[1]

Trong chuyến tuần tra thứ bảy, U-21 gặp tai nạn mắc cạn ngoài khơi đảo Oddknuppen, Na Uy vào ngày 27 tháng 3, 1940, bị Na Uy chiếm và kéo về Mandal. Nó được kéo về Kristiansand để sửa chữa, rồi được Đức chiếm lại vào ngày 9 tháng 4 sau khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Na Uy và đưa về Kiel để sửa chữa.[1]

Đến tháng 7, 1940, U-21 được điều về Chi hạm đội U-boat 21 và làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến cuối chiến tranh. Nó ngừng hoạt động và xuất biên chế tại Pillau (nay là Baltiysk thuộc tỉnh Kaliningrad, Liên bang Nga) vào ngày 5 tháng 8, 1944 và tháo dỡ làm nguồn phụ tùng. Con tàu bị lực lượng Liên Xô chiếm ngày 25 tháng 4, 1945 và có thể đã bị tháo dỡ sau đó.[1]

Tóm tắt chiến công

sửa

U-21 đã đánh chìm năm tàu buôn với tổng tải trọng 10.706 tấn, cũng như gây hư hại cho một tàu chiến 11.500 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[2]
21 tháng 11, 1939 HMS Belfast   Hải quân Hoàng gia Anh 11.500 Bị hư hại (mìn)
1 tháng 12, 1939 Mercator   Phần Lan 4.260 Bị đánh chìm
21 tháng 12, 1939 Carl Henckel   Thụy Điển 1.352 Bị đánh chìm
21 tháng 12, 1939 Mars   Thụy Điển 1.475 Bị đánh chìm
31 tháng 1, 1940 Vidar   Đan Mạch 1.353 Bị đánh chìm
24 tháng 2, 1940 Royal Archer   Anh Quốc 2.266 Bị đánh chìm (mìn)

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “The Type IIB U-boat U-21”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-21”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.

Thư mục

sửa
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.

Liên kết ngoài

sửa
  • Helgason, Guðmundur. “The Type IIB boat U-21”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  • Hofmann, Markus. “U 21”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.