T.T.Kh.

nhà thơ ẩn danh trong phong trào Thơ mới

T.T.Kh. (tên cách điệu TTKh hay T.T.Kh) là bút danh của một nhà thơ hiện vẫn chưa rõ lai lịch giới tính cụ thể, xuất hiện lần đầu vào khoảng cuối thập niên 1930. Tác giả đã thu hút sự quan tâm của công chúng, báo chí và các nhà khảo cứu văn học Việt Nam, với lượng lớn sách báo ở trong nước lẫn hải ngoại viết về T.T.Kh. bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 đến thế kỷ 21. Đã có nhiều suy đoán về danh tính người đứng sau những bài thơ, trong đó hai giả thuyết nổi bật nhất là Thâm Tâm và Trần Thị Vân Chung, kéo theo tranh cãi trong giới thi đàn về sau.

T.T.Kh.
Hình minh họa cô gái trong bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" của T.T.Kh., đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy năm 1937
Hình minh họa cô gái trong bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" của T.T.Kh., đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy năm 1937
Quốc tịchViệt Nam
Thể loạiThơ lãng mạn
Trào lưuThơ mới
Tác phẩm nổi bật"Hai sắc hoa Ti-gôn"

Các bài thơ do T.T.Kh. sáng tác – tiêu biểu "Hai sắc hoa Ti-gôn" – đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm của các nhà thơ cùng nhạc sĩ nổi bật sau này, tạo nên sức ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng. Năm 1942, T.T.Kh. được đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam như là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam (19301945).

Xuất hiện

sửa

Dựa trên đa số nguồn sách báo từ trước đến nay, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảyHà Nội đã đăng truyện ngắn Hoa Ti-gôn của nhà văn Thanh Châu lên số 174, xuất bản vào cuối tháng 9 năm 1937.[a][2][5] Nội dung truyện kể về chuyện tình buồn giữa một cô gái với chàng họa sĩ nghèo mới ra trường.[b][7] Cùng tháng, tòa soạn báo nhận được một bài thơ từ tác giả ký tên T.T.Kh. "Hai sắc hoa Ti-gôn",[c][4] đăng trên số 179 ra ngày 30 tháng 10 năm 1937.[d][2] Bài thơ này được cho là có liên hệ tới truyện ngắn của Thanh Châu.[8][15]

Chưa đầy một tháng sau, một bài thơ khác mang tựa "Bài thơ thứ nhất" tiếp tục được gửi đến, cũng với nét chữ run run,[16] ra mắt tại số 182 ngày 20 tháng 11 năm 1937.[17][18] Cả hai bài sau khi ra đời đã thành công thu hút sự chú ý từ giới văn đàn và người yêu thơ bởi những vần thơ da diết.[12]

Năm 1938, T.T.Kh. được cho là viết bài nữa có tên "Đan áo cho chồng", mà sau đó bị đưa lên Phụ nữ thời đàm ngày 23 tháng 7.[17] Tác giả đã đưa cho tòa báo Tiểu thuyết thứ bảy "Bài thơ cuối cùng", giới thiệu ở số 217 ra ngày 30 tháng 10 cùng năm.[e] Khi bài thơ này đăng xong thì không còn bài mới nào của T.T.Kh. gửi đến hai tờ báo nữa.[4][17]

Nhưng theo tác giả Anh Đào, viết tại báo Nhân Loại bộ mới[f] năm 1958, ông cho biết đã tìm ra vài câu thơ của "Bài thơ thứ nhất", "Bài thơ cuối cùng" đăng lần lượt trên số 22 và 15 Hà Nội báo ra ngày 3 tháng 6 và 15 tháng 4 năm 1936. Công bố trên hoàn toàn đi ngược lại với đa số các tư liệu và thông tin về T.T.Kh., tuy nhiên điều này vẫn chưa thể được kiểm chứng thông qua hai số báo gốc bị thất lạc và do đó phát hiện trên cũng sớm đi vào quên lãng.[21]

Phân tích

sửa

Cấu trúc, chủ đề thơ

sửa
 
Hoa Hiếu nữ (Tigôn) là một hình ảnh hiện đại đặc trưng xuất hiện trong các sáng tác của T.T.Kh.[22][23]

Ba trong số các bài thơ (xem danh sách bên dưới) được T.T.Kh. viết theo lối thất ngôn tứ tuyệt[24] với giai điệu phảng phất Đường thi. Tất cả sáng tác của nhà thơ đều ở ngôi kể thứ nhất là chính tác giả ("tôi", "em").[25] Từ ngữ sử dụng trong thơ hầu như là từ thuần Việt, đơn giản và không nhiều những từ địa phương hay Hán-Việt.[26][27]

Chủ đề thơ T.T.Kh. xoay quanh tình yêu và kỷ niệm mùa thu gắn liền hoa tigôn,[28] phù hợp lý tưởng chung của lớp thanh niên trẻ trước cách mạng.[29] Thơ tác giả nghiêng về ảnh hưởng từ dòng thơ Pháp với các nhà thơ Xuân Diệu, Thế Lữ,... hiện đại từ ngôn ngữ đến hình ảnh.[30][31] Cũng chính vì phong cách sáng tác này mà T.T.Kh. đã gây nên phân vân cho một số nhà nghiên cứu đương thời trong việc xếp hẳn vào dòng thơ Việt.[26] Dù vậy, nội dung các bài thơ trên vẫn chịu sự ảnh hưởng từ lễ giáo phong kiến và không thể có cái kết đẹp.[17][32] Theo Phạm Thế Ngũ, lời thơ T.T.Kh. "có chỗ thật thà non vụng, nhưng cũng có nhiều đoạn trơn tru réo rắt, như phát ra từ nguồn thơ và âm điệu tự nhiên của lòng T.T.Kh.".[24]

Tác phẩm

sửa

Có tổng cộng 3 tác phẩm của T.T.Kh. đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy:

  • "Hai sắc hoa Ti-gôn" (1937): gồm 10 hoặc 11 khổ;[33] là tâm sự của một thiếu phụ, hoài niệm về mối tình xưa cũ với chàng trai mà cô đem lòng yêu và bi kịch chia li khi phải lấy người đàn ông khác, cũng như băn khoăn về phản ứng "người ấy" khi biết tin cô đã sang sông.[34]
  • "Bài thơ thứ nhất" (1937): hồi tưởng về thanh xuân và nỗi cô đơn trong tâm hồn cô gái bên người chồng hiện tại;[22][25] gồm 10 khổ 40 câu.[35]
  • "Bài thơ cuối cùng" (1938): gồm 9 khổ;[36] lời trách móc, "oán hờn" của cô gái về việc bị đăng bài thơ không hề muốn, là thông điệp cuối cùng về sự chia tay.[37]

Bài thơ "Đan áo cho chồng", được viết ở thể thơ lục bát, là lời than thân của thiếu phụ về nỗi đau đớn xót xa nước mắt trong cuộc sống gia đình không hạnh phúc.[25] Về bài thơ này, đã có những nghi ngờ khác nhau rằng liệu T.T.Kh. có thực sự là tác giả. Việc sáng tác thi phẩm từng được nhà thơ đề cập đến trong "Bài thơ cuối cùng" như là tiền đề cho sự ra đời của tác phẩm, theo đó cho biết bài "Đan áo cho chồng" ban đầu không định đăng báo nhưng một trong số ba người đọc bài thơ đã lén đem đi "rao bán" và "Cho khắp người đời thóc mách xem".[g][39][40] Tuy nhiên theo Thanh Châu, bài thơ này có thể không phải của T.T.Kh. mà là bị giả mạo dựa trên những đặc điểm tương đồng, và chỉ có ba bài chắc chắn do T.T.Kh. sáng tác.[41] Các học giả khác thì cho rằng bài thơ không phải của T.T.Kh. vì đăng khác nơi.[42] Mã Giang Lân, viết trên Báo Văn nghệ, đã nghi vấn tác giả thực hai bài thơ cuối bởi có nhiều điểm mâu thuẫn.[43] Trái ngược với số ý kiến nghi ngờ, Trần Đình Thu, tác giả của loạt bài viết về T.T.Kh. trên tờ Thanh Niên, khẳng định dù không giống về hình thức nhưng phong cách sáng tác bài thơ này mang sự nhất quán với những bài còn lại và "rất T.T.Kh.". Cũng theo ông, "Đan áo cho chồng" có thể được viết trước ba bài thơ kia từ khá lâu, và lý do khác biệt trong lối viết là vì T.T.Kh. chỉ làm bài này để gửi cho "người chị nào đó" nên sẽ không cảm xúc bằng viết về/cho "người yêu".[39]

Sau khi Thâm Tâm qua đời vào 1950, T.T.Kh. được cho là viết thêm một bài thơ nữa có tên "Trả lại cho đời cánh hoa tim" để bày tỏ sự thương tiếc.[44] Thế nhưng bài thơ đã bị gọi là "một đoạn thơ "tâm thần"", nhại lại bài "Màu máu Ti-gôn" của Thâm Tâm.[45] Ngoài hai tờ báo là Tiểu thuyết thứ bảyPhụ nữ thời đàm đăng thơ T.T.Kh., cũng xuất hiện những bài thơ khác trên các mặt báo cùng thời với người viết tự xưng là T.T.Kh., trong số đó có "Thu ngục thất" đăng báo Phổ thông số 16 (1959) và "Tan vỡ" đăng báo Tiến thủ năm 1958. Tuy vậy, có quan điểm đã nhận định rằng hai bài này không phải của T.T.Kh., xét trên ý thơ và kỹ thuật chưa đạt đến mức độ cảm xúc như tác giả.[46]

Giới tính và gia thế nhân vật trong các bài thơ

sửa

Từ các bài thơ viết ở ngôi thứ nhất của T.T.Kh., giới tính nhân vật trữ tình đã được định rõ là nữ. Theo phân tích từ nhà nghiên cứu Trần Đình Thu dựa trên nội dung thơ, T.T.Kh. là một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn đều không phải vướng bận điều gì.[30] Trong thơ, T.T.Kh. thường "nhìn gió ngắm trăng" và sở thích đọc tiểu thuyết.[26] Cách dùng từ tại các bài thơ có thể khẳng định tác giả được cho đi học ở trường Tây và được đào tạo bằng chữ quốc ngữ.[26][47] Theo thơ, cô từng có mối tình với một nghệ sĩ không cùng quê ("người ấy") nhưng sau đó bị cha mẹ ép thành hôn với chồng "luống tuổi" và có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc.[22][25] Người chồng này được cho là họ Nghiêm, 38 tuổi hoặc lớn hơn.[48][49]

Danh tính

sửa

Câu hỏi về tác giả thực sự đằng sau bút danh T.T.Kh. đã gây nên những tranh luận lớn trong giới học thuật và xã hội Việt Nam, kéo dài từ khoảng giữa thế kỉ 20 đến đầu thế kỉ 21.[2][50] Các bài thơ thời điểm ra mắt nhanh chóng nhận được sự yêu thích của bạn đọc và có nhiều thư từ khắp cả nước gửi về Tiểu thuyết thứ bảy, tò mò về danh tính người sáng tác.[51] Đáng chú ý, chỉ sau sự kiện hai bài thơ đầu đăng tải, có mấy người đàn ông đã nhất quyết cho rằng T.T.Kh. là người yêu của mình.[12][52] Năm 1942, nhà thơ lần đầu được bộ đôi nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đưa vào Thi nhân Việt Nam, cuốn sách tổng hợp nói về những nhà thơ nổi bật phong trào Thơ mới 1932-1945. Trong sách, người viết bày tỏ sự hiếu kỳ về cuộc sống tác giả sau ba năm kể từ các bài thơ cuối.[h][54]

Song song khoảng thời gian trên, có nhiều thông tin về cuộc sống và thân phận thực của T.T.Kh. liên tiếp được tung ra.[4] Nhiều tờ báo, nhà xuất bản có tiếng ở Hà Nội khi ấy, đơn cử như Tiểu thuyết thứ bảyHà Nội báo, đã cạnh tranh nhau để tìm ra người đứng sau các bài thơ ký tên T.T.Kh. nhằm lôi kéo độc giả, giành thế thượng phong.[55] Thậm chí, có người còn nhận từng gặp T.T.Kh. ngoài đời.[47][56] Vô số tài liệu, sách báo khác nhau từ Nam ra Bắc đã viết và đưa ra phán đoán về T.T.Kh., tuy nhiên nhiều trong số đó bị thất lạc do hoàn cảnh chiến tranh.[57][58] Nhưng theo Nguyễn Vỹ, câu chuyện của T.T.Kh. không hề gợi một dư luận xôn xao nào đương thời và phải đến thời hậu chiến (tức sau Chiến tranh Đông Dương) mới được biết đến, được "tôn sùng [...] thành một thảm kịch của tình yêu!".[59]

Trong lời lược thuật về tác gia ở cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến, T.T.Kh. có từng đến tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy để gửi "Hai sắc hoa Ti-gôn". Đây là lần đầu tiên và duy nhất "người phụ nữ" xuất hiện; các bài thơ còn lại gửi qua đường bưu cục.[60] Người phụ nữ này được miêu tả là "một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn"...[61] Còn theo Thanh Châu, ông đã nhận bó hoa tigôn trên bàn làm việc khi đang cộng tác tờ Tiểu thuyết thứ bảy; người đưa bó hoa này được cho là T.T.Kh., "một thiếu phụ rất đẹp và sang trọng mang đến nhưng không để lại danh thiếp".[62] Tại số báo thứ 178, tòa báo có đăng câu hỏi địa chỉ nhà thơ, nhưng một bức thư của T.T.Kh. đã gửi tới với lời hồi âm không muốn tiết lộ thân phận.[3][63]

Thâm Tâm và những người khác

sửa
 
Thâm Tâm được xem là tác giả của những bài thơ dưới tên T.T.Kh.
Nhờ ở bài viết của Thanh Châu, và cũng do những gợi ý của ông Vũ Đình Long, tôi đã nẩy ra ý tưởng ngộ nghĩnh là viết một loạt bài về những vấn đề đang ăn khách hiện nay: cảnh ép duyên con cái với những nét chấm phá bi thương giữa hạng giàu kẻ nghèo trong xã hội; tục tảo hôn nơi xóm làng: gái 15 phải lấy ông già 60 hoăc cô gái 17 phải lấy một cậu bé 4, 5 tuổi con nhà giàu... Cái éo le, mất hạnh phúc sau đó, chằng chéo nhau làm cho con người phát sinh rất nhiều hệ lụy chua xót.

(được cho là) Thâm Tâm, trả lời với tác giả Hồ Thông trong "Trong lửa đạn thù".[64]

Một trong những giả thiết nổi bật nhất cho rằng T.T.Kh. chính là Thâm Tâm.[65][66] Tại các bài thơ trả lời T.T.Kh., Thâm Tâm đã tự nhận mình là người yêu tác giả[25][67] và có bài xưng T.T.Kh. là Khánh.[68] Nhiều báo chí thế kỉ 20 cho biết được Thâm Tâm tâm sự, xác nhận đã chấp bút những bài thơ trên.[69][70] Cũng có người suy luận đây là sản phẩm tưởng tượng của nhà thơ.[71] Trong một cuộc trò chuyện với Thâm Tâm (1949), Bùi Viết Tân được Thâm Tâm tiết lộ thông tin T.T.Kh. do chính mình viết, và chuyện này duy có Trần Huyền Trân nắm rõ.[72] Còn theo Anh Đào (1947) thì chuyện này chỉ Nguyễn Bính làm nhân chứng cho lời kể Thâm Tâm.[73]

Theo lời Nguyễn Vỹ, bạn của Thâm Tâm, trong một lần rủ Thâm Tâm về nhà sau khi bắt gặp nhà thơ đang say rượu, ông đã nghe được chuyện tình của bạn với người con gái có tên Trần Thị Khánh[i] sống ở cuối đường Sinh Từ, bên cạnh vườn Thanh Giám (tiếng Pháp: Pagode des Corbeaux[j]). Hai người lén đến vườn Thanh Giám để hẹn hò đúng hai lần. Sau khi từ chối ra mắt bố mẹ cô gái này vì sự nghiệp chưa có gì, một thời gian sau Thâm Tâm nhận tin người yêu sắp kết hôn với một nhà buôn giàu có góa vợ ở phố Hàng Ngang. Để không mang tiếng bị phụ tình, ông quyết định thức trắng một đêm viết nên bài "Hai sắc hoa Ti-gôn" rồi ký T.T.Kh., ý chỉ tên bạn gái.[k] Sau đó, ông nhờ cô em họ chép lại thơ bằng nét chữ khác và mang bản viết này đến tòa báo nhằm giấu danh tính. Sau khi hai bài thơ đầu được đăng tải, Trần Thị Khánh đã viết một bức thư tới Thâm Tâm, dùng xưng hô "tôi" thay vì "em" như mọi khi để tỏ ý không bằng lòng việc ông dùng tên cô làm thơ, điều có thể gây ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Thâm Tâm dựa trên lá thư này viết nên "Bài thơ cuối cùng", rồi sau đó tự viết bài thơ trả lời "Dang dở" cùng năm.[79]

Tuy vậy, trong bài viết trên tờ Phổ thông số 28 ra ngày 15 tháng 2 năm 1960, một người từng thân quen Thâm Tâm thời gian đáng kể đã phủ nhận ông là tác giả của T.T.Kh. do chưa hề nghe bạn đề cập đến bao giờ.[58] Nhà văn Thanh Châu cũng bày tỏ quan điểm tương tự.[80] Những người bạn của nhà thơ, trong đó có Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân, khi được hỏi không đưa ra một câu trả lời đồng nhất về liệu tác giả các bài thơ có phải Thâm Tâm.[81] Còn với nữ sĩ Ngân Giang thì những bài thơ này là Thâm Tâm viết hộ cho một người bạn (theo lời ông kể).[82]

Số ý kiến khác thiên về tác giả là một cá nhân khác, như người yêu Thâm Tâm,[73][83] cụ thể hơn là em họ nhà thơ Tế Hanh (do ông tự nhận, tác giả Giang Tử tường thuật lại);[l][38] Phạm Thị Sứ (hay Phạm Thị Lý[85]) nữ sinh trường Đồng Khánh;[25][86] Trần Huyền Trân;[87] Nguyễn Bính;[4] Thẩm Thệ Hà (tên thật Tạ Thành Kỉnh);[88][89] Đinh Hùng;[90] J. Leiba (theo Vũ Bằng);[91][92] hay đi xa nữa là ít nhất hai nhân viên ẩn mật quen biết nhau làm tại Tiểu thuyết thứ bảyPhụ nữ thời đàm cùng viết ra các bài thơ;[93]... Song theo một số quan điểm, khi đem so sánh T.T.Kh. với các tác giả Nguyễn Bính và Thâm Tâm trong phong trào Thơ mới thì cả hai bị cho là có phong cách, cách dùng từ, giọng thơ khác nhau hoàn toàn, quá "cựu" trong khi T.T.Kh. rất "tân".[4][45]

Vào năm 2024, cây bút Nguyệt Hà của báo Công an nhân dân đã công bố phát hiện mới về mối liên hệ giữa T.T.Kh. và Thâm Tâm. Theo đó, dựa trên những tài liệu mà ông Nguyễn Tuấn Khoa – người con trai duy nhất của Thâm Tâm – sưu tầm được, tác giả tiết lộ việc nhà thơ đã sáng tác bài "Chút tình bỡ ngỡ" dưới bút danh T.G.Kh., đăng trên Tân Việt văn đàn số 8 năm 1935. Đây được coi là sáng tác sớm nhất của ông, ra đời khi nhà thơ mới tròn 18 tuổi. Ngoài sự tương đồng giữa hai bút danh, một số chi tiết khác liên quan tới T.T.Kh. cũng đã xuất hiện trong các sáng tác kế tiếp của Thâm Tâm trên tuần báo Bắc Hà, giai đoạn tháng 11 năm 1936. Tuy nhiên, bài điều tra không khẳng định Thâm Tâm chính là T.T.Kh. mà chỉ để ngỏ nghi vấn trên.[94]

Trần Thị Vân Chung

sửa

Sách T.T.Kh, nàng là ai?

sửa

Có ý kiến đã liên hệ T.T.Kh. với Thanh Châu và rằng hai người có quan hệ ngoài đời thực vì sự trùng hợp giữa truyện ngắn và bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" trong cách nhìn loài hoa tigôn, một hình ảnh tiêu biểu xuất hiện trong hai tác phẩm của hai tác giả. Tuy nhiên thông qua lời thơ, T.T.Kh. giải thích rằng đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.[23][39] Mùa thu năm 1994, bộ đôi tác giả Thế Nhật (Thế Phong, Trần Nhật Thu) đã ra mắt cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ấn hành.[m] Trong đó, cả hai khẳng định Trần Thị Vân Chung (bút danh Vân Nương) – một thành viên của nhóm thơ Quỳnh Dao – chính là T.T.Kh., dựa trên nguồn tin được tiết lộ từ người quen của bà Vân Chung là Thư Linh: bao gồm bài thơ "Hoa tim" do bà sáng tác[n] và bức thư được cho là Vân Chung viết.[98] Các tác giả cũng cho rằng Vân Chung và Thanh Châu có quan hệ tình cảm, từng là người yêu cũ của nhau.[99] Điều này được cho là khá tương đồng với hoàn cảnh các bài thơ và giải quyết nhiều thông tin khúc mắc.[32][100]

Tôi thì tôi chưa được biết mặt biết tên thực của T.T.Kh. Tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp, trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?

Thanh Châu, viết tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy (1939)[8]

Sau khi T.T.Kh, nàng là ai? ra mắt, cuốn sách mau chóng được bán hết đồng thời tạo nên tranh cãi lớn về chất lượng nội dung và tính xác thực.[89][97][101] Các tờ báo lớn ở Việt Nam như Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ,... và ngoài nước đều có bài viết khen ngợi công sức tìm hiểu của tác giả cuốn sách,[102] nhưng cũng không ít độc giả gửi thư phản bác luận cứ trong sách. Nhà văn Thanh Châu, trả lời phỏng vấn in trên tờ Nguyệt san văn hóa số tháng 9 năm 1994, đã nói bà Vân Chung không hề biết gì về T.T.Kh..[103] Trong một nhận xét tiêu cực hơn, nhà phê bình Nguyễn Thạch Kiên cuốn Về những kỷ niệm quê hương chỉ trích tác giả "bịa đặt [...] vu khống và lừa gạt độc giả" khi cho rằng người viết dựa vào một bài thơ của Nguyễn Bính ("Cô gái vườn Thanh") và bức thư từ Thư Linh mà "áp đặt, múa bút chửi người".[104]

Ngay khi sách được xuất bản, Trần Thị Vân Chung đã viết bài trả lời phủ nhận rằng mình là T.T.Kh. bằng các bằng chứng thuyết phục rồi gửi cho nhà xuất bản, Bộ Văn hóa – Thông tin[105] và đăng lên những tờ báo lớn tại Việt Nam lẫn hải ngoại. Bà ngoài ra còn chỉ trích nhân chứng cuốn sách Thư Linh – người được cho là bạn lâu năm của Vân Chung[106] – khi không có tìm hiểu xác đáng.[107] Những người thân, bạn bè nhà thơ khi được hỏi cũng cho biết sách sai rất nhiều thông tin về gia đình và tính cách bà,[108][109] khiến người đọc nghi ngờ về tính xác thực của cuốn sách nói trên. Số ý kiến khác thì nhận xét thơ Trần Thị Vân Chung "không xứng tầm" với T.T.Kh.[32][110] và rằng bà "không thể là T.T.Kh.".[45]

Trong những bài phản hồi Trần Thị Vân Chung sau đó, Thế Nhật đã nhận "sai hết" và đưa ra lý do bào chữa cho lỗi sai của mình, nhưng khẳng định sự thành công của cuốn sách khi gây được dư luận cả trong Việt Nam và quốc tế.[111][112] Thư Linh cũng viết thư nhận sai, quy phần lớn lỗi về tác giả cuốn sách không tìm hiểu kỹ, dù theo hai tác giả bà đã nhận lời cung cấp thông tin cho họ.[113] Tuy nhiên vẫn có các ý kiến ủng hộ luận điểm Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh.. Trả lời với Trần Đình Thu, nhà văn Thanh Châu xác nhận ông và Vân Chung từng là người yêu một thời gian, biết nhau trước đó thông qua mối quan hệ bạn bè với anh ruột bà Vân Chung. Thế nhưng hai người sớm phải chia tay vì vấn đề môn đăng hộ đối. Một thời gian sau ông được thông báo Vân Chung đã lấy chồng và cả hai xa cách sau 1954, ông ra Bắc còn Vân Chung cùng chồng vào Nam. Dù vậy, Thanh Châu đã nhất mực phủ nhận khi được đặt câu hỏi liệu T.T.Kh. có phải là Trần Thị Vân Chung.[100][110]

Sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh

sửa

Vào tháng 2 năm 2007, Trần Đình Thu đã ra mắt cuốn Giải mã nghi án văn học T.T.Kh dài 192 trang, do Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn và CADASA phát hành.[114][115] Cũng với lập luận giống Thế Nhật về Trần Thị Vân Chung, Đình Thu khẳng định mình sẽ là "người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ".[116] Trước đó, sau khi hoàn thành xong bản thảo, ông cho đăng các bài phân tích của mình lên báo Thanh Niên và gây được sự quan tâm từ bạn đọc.[117] Cuốn sách từng bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra kiện tụng.[118]

Sau khi sách lưu hành, Trần Thị Vân Chung tiếp tục viết một bức thư phản đối, cáo buộc Trần Đình Thu vì "nêu tên tuổi, đưa hình ảnh và chà đạp lên đời sống cá nhân" mà không xin ý kiến từ người trong cuộc. Trần Đình Thu sau đó trả lời rằng ông chỉ muốn "giải mã" T.T.Kh. và không xúc phạm uy tín, danh dự hay nhân phẩm của bà, cũng như cho rằng nội dung sách không phạm vào điều cấm của luật Xuất bản nên chưa phạm luật.[118] Một số luật sư của đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, trả lời trong bài viết đăng trên báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đã tỏ ra "khá ủng hộ" về khía cạnh tìm hiểu T.T.Kh. của cuốn sách nhưng cũng lưu ý rằng việc công bố những thông tin đời tư cá nhân mà không có sự đồng ý của họ và việc tự ý đăng các bài thơ bà Vân Chung có thể vi phạm luật Dân sựluật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.[119]

Ảnh hưởng và di sản

sửa

Các thi phẩm của T.T.Kh. đã có được sự đón nhận lâu dài từ người đọc và tạo nên ảnh hưởng lên văn hóa đại chúng. Thơ T.T.Kh. khi ấy tập hợp những thanh niên tri thức tiền chiến có cùng một thế giới quan khi đặt ra lập trường nữ quyền "táo bạo [...] trực tiếp thách thức trật tự xã hội cũ, vốn đã được chứng minh là không phù hợp và khó bị thay đổi bởi giới cầm quyền", trong bối cảnh lớp thế hệ này đã dần hình thành những suy nghĩ về "cải cách xã hội, nới lỏng sự ngột ngạt trong tình cảm, và hiện đại ở mọi mặt đời sống Việt Nam". Những bài thơ T.T.Kh. được nhận định "vừa là lời than thở đau lòng về tình yêu bị ngăn cách, vừa là bản cáo trạng về tục lệ hôn nhân sắp đặt của xã hội Việt Nam mà nay đã bị bài trừ". Học giả Thomas D.Le của Viện Việt-Học coi T.T.Kh. là một trong số các nhà thơ vĩ đại nhất của Việt Nam hiện đại, ví tác gia như một cô gái "dũng cảm cưỡi trên làn sóng mới bắt đầu quét qua tâm hồn và suy nghĩ của một thế hệ tri thức thành thị" và liên hệ T.T.Kh. với phong trào Thơ mới "khiến người phụ nữ có thể vươn lên khỏi những ràng buộc của truyền thống, trước hết là trong con tim, sau đó là đến suy nghĩ".[22]

Đã có những nhà thơ sáng tác thơ trả lời hoặc gửi tặng T.T.Kh.,[22][120] đi xa hơn thì nhận có quen biết với tác giả,[121] như "Màu máu Tigôn", "Dang dở", "Các anh" (hay "Gửi T.T.Kh.") của Thâm Tâm;[o][7][124] "Dòng dư lệ" (hay "Cô gái vườn Thanh") của Nguyễn Bính;[25]... J. Leiba từng chép nguyên văn bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" hoặc "Đan áo cho chồng" đăng lên tờ Hà Thành ngọ báo, với lời nhắn gửi (hoặc do ông in lại từ tác giả khác) bằng thơ dành cho T.T.Kh. dài 4 câu.[125][126] Trong số những bài thơ của T.T.Kh., "Hai sắc hoa Ti-gôn" được nhận định là tác phẩm tiêu biểu,[25] nổi tiếng nhất và là một trong những bài thơ tình hay nhất thi ca Việt Nam.[127] Theo nhà phê bình văn học Thụy Khuê, bài thơ này đã mở đường cho một lối lãng mạn khác với các thi sĩ cùng đề tài như Đông Hồ, Tương Phố: khóc cho tình yêu, cho người ngoài hôn phối và là một "giọt lệ tương tư mới". Nhà phê bình đồng thời ghi nhận đây là lần đầu tiên hai chữ "người ấy" được đưa vào thơ ca Việt Nam, trở nên "cổ điển" và là "ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ". "Bài thơ cuối cùng" cũng được bà xem như một tác phẩm "huyền thoại" với những lời trách móc "u uẩn" bằng nhịp điệu du dương, lời tha thiết và gắn bó.[2]

Nhờ "Hai sắc hoa Ti-gôn", tên tuổi T.T.Kh. gắn liền với hình ảnh hoa tigôn – được xem như là biểu tượng của tình yêu[128] và đóng vai trò là nguồn cảm hứng cho thơ ca hậu thế,[129][130] cũng như đi vào âm nhạc Việt Nam[131][132] khi được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc lại như Trần Thiện Thanh, Hà Phương,[133] Trần TrịnhAnh Bằng,[25] Từ Vũ,[134] Song Ngọc,[135]... Phạm Duy đã nhại lại bài thơ trong Tục ca số 2 "Tình Hôi", thu âm trước 1975.[136] Sau năm 1954, những người dân di cư vào Nam chuyền tay nhau bài thơ trên của T.T.Kh. và tạo nên xúc động mạnh cho thế hệ bấy giờ.[132] Khoảng giữa thập niên 1970, trong Nam Bộ rộ lên phong trào in lại những tác phẩm văn học của các tác giả trước 1945 và văn thơ cách mạng. Danh tiếng T.T.Kh. đã trở nên phổ biến hơn qua phong trào này với việc thơ tác giả, trong đó có "Hai sắc hoa Ti-gôn", được in theo loại cánh bướm xếp gọn dễ phổ biến và bán với giá rẻ.[25] Nhiều người đã học thuộc lòng bài thơ;[137][138] khổ cuối bài cũng được nhiều người chế lại, trong đó có bài được cho là của Hồ Dzếnh.[139]

Vào năm 2010, Trần Đình Thu tiết lộ kế hoạch chuyển thể câu chuyện T.T.Kh. lên phim, dựa theo tìm hiểu của ông từ cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh. Ông đã viết xong một kịch bản điện ảnh dài 110 phút mang tên "Chuyện tình Hai sắc hoa ti gôn", sau đó kịch bản này được Phạm Thùy Nhân biên tập lại suốt nhiều tháng và gửi cho một hãng phim, dự kiến sẽ do Lê Cung Bắc đạo diễn.[140][141] Tuy nhiên, việc thực hiện phim bị đình lại do tác phẩm chỉ chủ yếu dành cho đối tượng là những người trên 40 tuổi và do đó khó đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất.[142][143] Năm 2017, bài thơ "Hai sắc hoa Ti-gôn" và câu chuyện của T.T.Kh. với Thâm Tâm được dựng thành vở kịch bolero do đạo diễn Ngọc Tưởng thực hiện. Vở kịch này là một phần của chương trình truyền hình Kịch cùng Bolero, với hai diễn viên thể hiện là Lê PhươngTrung Dũng.[144]

Chú thích

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Cụ thể: theo Vũ Bằng là vào ngày 25 tháng 9 năm 1937,[1] còn theo Thụy Khuê là vào ngày 27 tháng 9 năm 1937.[2] Các nguồn khác thì ghi số báo ra từ tháng 7.[3][4]
  2. ^ Theo Thanh Châu, đây là câu chuyện có thực của họa sĩ nổi tiếng Lê Phổ, sinh viên thế hệ đầu tiên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.[6]
  3. ^ Theo Thanh Châu, tòa báo đã nhận bài thơ cùng bức thư T.T.Kh. xin chữ ký ông và giãi bày lý do viết nên tác phẩm.[8] Còn theo nhà văn Ngọc Giao, nguyên là thư ký Tiểu thuyết thứ bảy, ông vô tình nhặt phải một mẩu giấy bị vo tròn ném trong sọt rác chứa "Hai sắc hoa Ti-gôn". Bài thơ – viết trên hai mặt giấy học trò khổ nhỏ với nét bút chì nguệch ngoạc – đã không thông qua sự chấp nhận của ban biên tập. Tuy nhiên nội dung thơ lại gây ấn tượng lớn cho ông và cả đồng nghiệp lúc ấy là Trúc Khê, sau đó được cho sắp chữ lên số báo mới nhất.[9][10]
  4. ^ Có nguồn ghi các bài thơ đăng trên báo Loa,[11] và bài thơ đầu tiên được đăng là "Bài thơ thứ nhất" rồi mới đến "Hai sắc hoa Ti-gôn".[11][12][13][14]
  5. ^ Có nguồn ghi bài thơ đăng trên số 217 ra mắt ngày 23 tháng 7 năm 1938.[19]
  6. ^ do ông làm chủ bút[20]
  7. ^ Có nguồn ghi người gửi đăng bài thơ này lên báo là Thâm Tâm,[38] nguồn khác thì ghi là Thanh Châu.[39]
  8. ^ Bài tiểu sử về T.T.Kh. viết từ tháng 11 năm 1941.[53]
  9. ^ Có chỗ ghi Từ Thị Khánh.[74]
  10. ^ Đây được cho là "vườn Thanh" đề cập trong bài thơ, một công viên nhỏ bên cạnh đền thờ Khổng Tử. Địa danh này cũng trùng hợp với miêu tả của Nguyễn Tố, một trong số những đồng bạn của Thâm Tâm, từng cùng nhóm bạn năm người đến đây nhiều lần.[75]
    Nhưng theo Bùi Viết Tân, Thâm Tâm cho biết hình ảnh "vườn Thanh" trong "Bài thơ thứ nhất" là vùng Thanh Miện ở Hải Dương.[76] Còn Nguyễn Bính, Thế Nhật và Hoàng Tiến thì cho rằng đây là quê Thanh Hóa của Thanh Châu và người yêu cũ.[77]
  11. ^ Hoặc có một số người đọc là Thâm Tâm – Khánh hay Tuấn Trình – Khánh, giản thể tên của hai người.[25][78]
  12. ^ Theo tác giả Hoài Anh, khi ông hỏi Tế Hanh về vấn đề này thì nhà thơ đã phủ nhận toàn bộ và nói chưa bao giờ gặp người nào có tên Giang Tử.[84]
  13. ^ Sách được in thành hai bản: bản 1994 có độ dài 161 trang và bản 2001 giảm xuống còn 151.[95]
  14. ^ Bài thơ này được in trong tập Những dòng thơ hoa của đồng tác giả Nghiêm Phái và Thư Linh, do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin phát hành năm 1994.[96][97]
  15. ^ Có ý kiến đã cho rằng những bài này không phải do Thâm Tâm làm.[122][123]

Tham khảo

sửa
  1. ^ Vũ Bằng 2002, tr. 92.
  2. ^ a b c d e Thụy Khuê (13 tháng 4 năm 2009). “Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa ty gôn”. RFI. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  3. ^ a b Nhiều tác giả 1998, tr. 1176.
  4. ^ a b c d e f Trần Đình Thu (23 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  5. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 75.
  6. ^ “Nhà văn Thanh Châu: Hồn muôn năm cũ”. Công an nhân dân. 8 tháng 9 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  7. ^ a b Hoài Việt 1991, tr. 139.
  8. ^ a b c “Những cánh hoa tim”. Tiểu thuyết thứ bảy. 277: 13–14. ngày 23 tháng 9 năm 1939. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  9. ^ “Trúc Khê là nhân chứng biết về bài thơ "Hai sắc hoa ti-gôn". Báo điện tử Tổ quốc. 11 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  10. ^ Anh Chi (27 tháng 8 năm 2008). “Suýt nữa không có Hai sắc hoa ti gôn. Đại biểu nhân dân. Tạp chí Khuyến Học & Dân Trí. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  11. ^ a b Thế Phong 1974, tr. 262,263.
  12. ^ a b c Hoài Thanh & Hoài Chân 1994, tr. 330.
  13. ^ Phạm Thanh 1990, tr. 267.
  14. ^ Trần Tuấn Kiệt 1985, tr. 385.
  15. ^ Nhiều tác giả 2004, tr. 1631-1632.
  16. ^ “Xứ Thanh - miền đất thơ ca”. khxh.hdu.edu.vn. Trường Đại học Hồng Đức. 26 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  17. ^ a b c d Vũ Thanh Hoa (30 tháng 11 năm 2018). “T.T.Kh. và bí ẩn của "Sắc hoa ti gôn". Báo Bà Rịa - Vũng Tàu. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  18. ^ Nguyễn Thanh Hoàng (1972). “T.T.Kh”. Tuần báo văn-nghệ Tiền phong (639–655). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  19. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 453.
  20. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 104.
  21. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 103-105.
  22. ^ a b c d e D.Le, Thomas (tháng 10 năm 2008). “TTKH: The star-crossed emancipated woman” [TTKH: Người phụ nữ bất hạnh được giải phóng]. Viện Việt-Học (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  23. ^ a b Trần Đình Thu (26 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 4: Mối quan hệ giữa T.T.Kh và tác giả truyện ngắn”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  24. ^ a b Phạm Thế Ngũ 1965, tr. 592.
  25. ^ a b c d e f g h i j k "Hai sắc hoa ti-gôn" - Một huyền thoại văn chương”. Báo Văn nghệ. 8 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  26. ^ a b c d Trần Đình Thu (24 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 2: T.T.Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính ?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  27. ^ Hoài Việt 1991, tr. 157.
  28. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 542.
  29. ^ Thế Phong 1974, tr. 264.
  30. ^ a b Trần Đình Thu (25 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 3: T.T.Kh là "nàng" hay "chàng"?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  31. ^ Minh Huy 1962, tr. 64.
  32. ^ a b c Trần Đình Thu (29 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ cuối: Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  33. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 89.
  34. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 508-515.
  35. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 515-516.
  36. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 119.
  37. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 517-518.
  38. ^ a b Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 549.
  39. ^ a b c d Trần Đình Thu (27 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 5: Ai là người yêu của T.T.Kh?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  40. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 553.
  41. ^ Hoài Việt 1991, tr. 141, 142.
  42. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 556.
  43. ^ Hoài Việt 1991, tr. 141-142.
  44. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 553-554.
  45. ^ a b c Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 624.
  46. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 520-522.
  47. ^ a b Nguyễn Cẩm Xuyên. “Đã hơn 70 năm, T.T.Kh. và chuyện tình thơ "Hai sắc hoa ti gôn" vẫn tươi nguyên màu bí ẩn”. Kiến thức ngày nay.
  48. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 160.
  49. ^ Thế Phong 1974, tr. 263.
  50. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 141.
  51. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 67.
  52. ^ Minh Huy 1962, tr. 58.
  53. ^ Hoài Thanh & Hoài Chân 1994, tr. 331.
  54. ^ Hoài Thanh & Hoài Chân 1994, tr. 330-331.
  55. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 139.
  56. ^ Hoài Việt 1991, tr. 140.
  57. ^ Đoàn Minh Tuấn (Mùa thu 1994). “Nhà văn Thanh Châu nói về T.T.Kh”. Nguyệt san Văn hóa. 9: 22–23.
  58. ^ a b Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 550.
  59. ^ Nguyễn Vỹ 1994, tr. 244.
  60. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 504.
  61. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 503.
  62. ^ Khánh Linh (8 tháng 10 năm 2012). “Nhà văn Thanh Châu: "Xin cỏ nội xóa đi ngàn chuyện dở". Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  63. ^ Hoài Việt 1991, tr. 154-155.
  64. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 103.
  65. ^ Vũ Bằng 2002, tr. 96.
  66. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 505-508, 550-552.
  67. ^ “Nhà thơ THÂM TÂM (1917 - 1950)”. Bảo tàng Văn học Việt Nam. 12 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  68. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 505.
  69. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 141-142.
  70. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 134-137.
  71. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 526, 556.
  72. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 126-130.
  73. ^ a b Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 552-553.
  74. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 133, 499.
  75. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 430.
  76. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 128.
  77. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 136, 323.
  78. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 502.
  79. ^ Nguyễn Vỹ 1994, tr. 229-245.
  80. ^ Hoài Việt 1991, tr. 152.
  81. ^ Hoài Việt 1991, tr. 87.
  82. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 141.
  83. ^ Hoài Việt 1991, tr. 132-133.
  84. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 140.
  85. ^ “Tác giả bài thơ "Hai sắc hoa ti gôn" là người Phủ Lý?”. Báo Hà Nam. VietNamNet. 4 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  86. ^ Ngọc Trang, Diệu Bình (3 tháng 6 năm 2017). “Nữ sinh Đồng Khánh nói về bài thơ 'Hai sắc hoa ti gôn'. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  87. ^ Tô Hoài 2016, tr. 152-154.
  88. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 549-550, 554-555.
  89. ^ a b Song Lê (Mùa xuân 2003). “Vài suy nghĩ nhỏ của tôi về chuyện tình T.T.Kh. "Cái đẹp chỉ nhìn xa" (PDF). Tạp chí Văn hóa Việt Nam. 20: 4–9. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  90. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 301-303.
  91. ^ Vũ Bằng 2002, tr. 98.
  92. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 324.
  93. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 131.
  94. ^ Nguyệt Hà (13 tháng 2 năm 2024). “Phát hiện mới về "nghi án văn chương" "Hai sắc hoa ti-gôn". Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  95. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 464.
  96. ^ Nghiêm Phái; Thư Linh (1994). Những dòng thơ hoa. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  97. ^ a b Thế Phong 2006, tr. 37.
  98. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 533-536.
  99. ^ (Thế Nhật 1994). "Chương 3: T.T.KH nàng là ai".
  100. ^ a b Trần Đình Thu (13 tháng 5 năm 2007). “Nhà văn Thanh Châu ra đi, T.T.Kh vẫn bí ẩn!”. Người lao động. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  101. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 464-465.
  102. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 450.
  103. ^ Nguyễn Hoàng Sơn (ngày 9 tháng 11 năm 1994). “Một cuốn sách gây nhiều tranh cãi”. Tiền Phong chủ nhật. 47: 8.
  104. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 324-325.
  105. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 488.
  106. ^ Thế Nhật 1994, tr. 45.
  107. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 159-174.
  108. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 325.
  109. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 176-177.
  110. ^ a b Trần Đình Thu (29 tháng 10 năm 2005). “Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 6: Ai có thể là T.T.Kh?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  111. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 474-475.
  112. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 497.
  113. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 514.
  114. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 489.
  115. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 465.
  116. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 87.
  117. ^ Trần Đình Thu 2007a, tr. 81.
  118. ^ a b Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 491-492.
  119. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 492.
  120. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 519-520.
  121. ^ “Bài thơ đan áo”. Người Việt. 31 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  122. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 188, 189-195, 208, 253.
  123. ^ Hoài Việt 1991, tr. 147-149.
  124. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 557.
  125. ^ Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng 1968, tr. 514-515.
  126. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 121.
  127. ^ Sơn Hà (28 tháng 3 năm 2021). “Số phận trớ trêu ít người biết của tuyệt phẩm Hai sắc hoa tigon”. Tri thức & Cuộc sống. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  128. ^ Lê Văn Lân, “Đặc khảo về những "Loài hoa tim rướm máu"”, Người Việt.
  129. ^ Xem các nguồn:
  130. ^ Lê Trọng Kim 2017, tr. 29-33.
  131. ^ Nguyễn Nhật Ánh (27 tháng 7 năm 2014). “Oan ức ti-gôn”. Sài Gòn Giải Phóng. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  132. ^ a b Tuấn Tôn (13 tháng 4 năm 2009). “Hai sắc hoa ti gôn và mối u tình của thi sĩ TTKh”. SBS Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  133. ^ “Hai Sắc Hoa Tigon – Bài thơ bất tử đến từ trong sọt rác”. Nhạc Xưa Thời Báo. 26 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  134. ^ Lê Minh Sang (7 tháng 10 năm 2021). “Lương duyên 'định mệnh' giữa nhạc sĩ Từ Vũ 'Gái Xuân' với thi sĩ giấu mặt TTKH”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  135. ^ Tam Kỳ (26 tháng 12 năm 2018). “Học trò Quang Lê ra MV mô phỏng thơ 'Hai sắc hoa ti gôn'. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  136. ^ Nguyễn Ngọc Chính. “Phạm Duy và 10 bài tục ca”. PhamDuy.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  137. ^ Vương Tâm (8 tháng 12 năm 2022). “Tôi kiếm hồn tôi xưa - Hà Nội”. Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  138. ^ Khuê Việt Trường (29 tháng 10 năm 2021). “Hoa Ti Gôn chen nở”. Công an Thành phố Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  139. ^ Ngọc Thiên Hoa 2008, tr. 157.
  140. ^ H.Nhân (13 tháng 4 năm 2010). “Trần Đình Thu "giải mã nghi án văn học T.T.Kh" bằng phim”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  141. ^ Đăng Bình (13 tháng 2 năm 2011). “Gập ghềnh đường... lên phim của chuyện tình thế kỷ T.T.Kh”. Pháp luật Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  142. ^ Trọng Thịnh (24 tháng 4 năm 2011). “Vì tiền, 'Hai sắc hoa ti gôn' chưa thể lên phim”. Tiền phong. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  143. ^ Trạc Tuyền (4 tháng 5 năm 2010). “Chuyện tình "Hai sắc hoa ti gôn" lên phim”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  144. ^ Mai Huệ (27 tháng 6 năm 2017). “Hai sắc hoa ti gôn và Cuối mùa nhan sắc thành kịch bolero ngang tài đạo diễn”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.

Nguồn

sửa

Đọc thêm

sửa