Tứ tượng
Tứ tượng (tiếng Trung: 四象; bính âm: Sì Xiàng, nghĩa đen là "bốn biểu tượng") là bốn sinh vật thần thoại đại diện cho bốn phương trong văn hóa và thần thoại Trung Hoa và các nước Đông Á, bao gồm Thanh Long của phương Đông, Bạch Hổ của phương Tây, Chu Tước của phương Nam và Huyền Vũ của phương Bắc.[1][2] Tứ Tượng còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như Thiên chi Tứ Linh, Tứ Thần hay Tứ Thánh.
Tứ Tượng | |
Theo chiều kim đồng hồ: Huyền Vũ phương Bắc, Thanh Long phương Đông, Chu Tước phương Nam Bạch Hổ phương Tây. |
Mỗi thần thú gắn liền với một phương và một màu sắc chính, và có thể còn đại diện cho các khía cạnh khác như các mùa trong năm, các đức tính, và các nguyên tố trong Ngũ Hành. Những thần thú này có ý nghĩa tâm linh và tôn giáo quan trọng và phổ biến ở các quốc gia trong vùng văn hóa Đông Á.
Lịch sử
sửaNhững mô tả về bộ tứ tượng đã bắt đầu xuất hiện từ thời cổ đại và có nhiều biến thể xuất hiện xuyên suốt trong lịch sử Trung Quốc. Ví dụ, trên bản sách thẻ tre Dung Thành Chí được khôi phục vào năm 1994, có niên đại từ thời Chiến quốc (khoảng 453–221 TCN), cho rằng có năm phương hướng thay vì bốn và tương ứng với năm sinh vật. Theo tài liệu này, Đại Vũ đã trao cờ hiệu chỉ hướng cho người dân của mình, mỗi cờ hiệu có các biểu tượng tương ứng: phía bắc hình chim, phía nam có hình rắn, phía đông hình mặt trời, phía tây hình mặt trăng và trung tâm là hình gấu.[3] Một thuyết khác cho rằng bộ thánh thú còn bao gồm cả của Kỳ Lân/ Hoàng Long / Đằng Xà / Câu Trần đại diện cho trung tâm.
Bộ tứ tượng Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ được xác định trong Kinh Lễ và được chấp nhận phổ biến. Theo đó, bốn sinh vật này là đại diện của bốn phương tương ứng Đông, Tây, Nam, Bắc.[2]
Theo học giả Trần Cửu Kim, tứ tượng thực chất có nguồn gốc các vật tổ trong tín ngưỡng của các dân tộc tại bốn phương. Rồng (Thanh Long) là vật tổ của người Đông Di ở phía Đông, rắn rùa (Huyền Vũ) là vật tổ của người Hoa Hạ ở phía Bắc, hổ (Bạch Hổ) là vật tổ của người Tây Khương ở Phía Tây, chim (Chu Tước) là vật tổ của người Thiếu Hạo ở phía Nam.[4]
Màu sắc ứng với tứ tượng được cho là phù hợp với màu đất ở các khu vực tương ứng của Trung Quốc: đất ngập nước màu xám xanh ở phía đông, đất giàu sắt đỏ ở phía nam, đất mặn màu trắng ở các sa mạc phía tây, đất đen giàu chất hữu cơ ở phía bắc, và đất vàng từ cao nguyên hoàng thổ trung tâm.[5]
Cùng với sự phát triển của Đạo giáo sau này, Tứ Tượng được nhân hóa và đặt tên gọi như con người, Thanh Long có tên là Mạnh Chương (孟章), Chu Tước có tên là Lăng Quang (陵光), Bạch Hổ có tên là Giám Binh (監兵), và Huyền Vũ có tên là Chấp Minh (執明).[6]
Trong văn hóa Trung Hoa
sửaKinh Dịch
sửaTrong Kinh Dịch, Tứ Tượng có liên quan chặt chẽ với thuyết Âm Dương, tương ứng với Thiếu Dương, Thiếu Âm, Thái Dương và Thái Âm.
無極生有極、 |
|
Ngũ hành
sửaNăm thần thú tương ứng với năm nguyên tố trong thuyết Ngũ Hành. Thanh Long của phương Đông ứng với Mộc, Chu Tước của phương Nam ứng với Hỏa, Bạch Hổ của phương Tây ứng với Kim và Huyền Vũ của phương Bắc ứng với Thủy. Trong thuyết này, nguyên tố thứ năm Thổ ứng với Hoàng Long ở chính giữa.[7]
Ngũ linh | Ngũ phương | Ngũ quý | Thời gian trong ngày | Ngũ sắc | Ngũ hành | Tứ tượng | Quẻ bát Quái | Năm vị thần |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thanh Long | Đông | Xuân | Bình minh | Xanh | Mộc | Thiếu Dương | ⚎ | |
Chu Tước | Nam | Hạ | Giữa Trưa | Đỏ | Hỏa | Thái Dương | ⚌ | |
Bạch Hổ | Tây | Thu | Hoàng hôn | Trắng | Kim | Thiếu Âm | ⚍ | |
Huyền Vũ | Bắc | Đông | Nửa đêm | Đen | Thủy | Thái Âm | ⚏ | |
Hoàng Long | Trung Tâm | Giữa Hè | Vàng | Thổ |
Ứng với các mùa trong năm
sửaMỗi thần thú đại diện cho một mùa trong năm và một giờ trong ngày. Thanh Long ứng với mùa xuân và giờ Mão (Bình minh), Chu Tước tượng trưng cho mùa hè và giờ Ngọ (giữa trưa), Bạch Hổ ứng với mùa thu và giờ Dậu (chiều tối), Huyền Vũ ứng với mùa đông và giờ Tý (nửa đêm).[6][8]
Thiên văn học
sửaTrong thiên văn học Trung Quốc, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ lần lượt đại diện cho bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Trong Nhị thập bát tú, Tứ Tượng tương ứng với bốn cung để phân chia các vì sao. Mỗi cung Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước được hợp từ bảy chòm sao.
- Đông: Thanh Long, bao gồm: Giác (Cá sấu), Cang (rồng), Đê (cu li), Phòng (thỏ), Tâm (cáo), Vĩ (cọp) và Cơ (báo)
- Tây: Bạch Hổ, bao gồm: Khuê (sói), Lâu (chó), Vị (trĩ), Mão (gà), Tất (quạ), Chủy (khỉ) và Sâm (vượn)
- Nam: Chu Tước, bao gồm: Tỉnh (bò), Quỷ (dê), Liễu (hoẵng), Tinh (ngựa), Trương (nai), Dực (rắn) và Chẩn (giun)
- Bắc: Huyền Vũ bao gồm: Đẩu (cua), Ngưu (trâu), Nữ (dơi), Hư (chuột), Nguy (én), Thất (heo) và Bích (nhím)
Theo truyền thống Trung Hoa, phương hướng được xác định theo cơ sở đặt phía Nam ở trên, khác với quan điểm hiện đại là đặt phía Bắc ở trên, vì vậy, khi mô tả vị trị tứ tượng cũng có thể nói Thanh Long ở bên trái (phía Đông), Bạch Hổ ở bên phải (phía Tây), Chu Tước ở phía trước (phía Nam), và Huyền Vũ ở phía sau (phía Bắc),[1][2] và ứng với Ngũ Hành của mỗi hướng: Đông - Mộc, Tây - Kim, Bắc - Thủy, Nam - Hỏa và Trung - Thổ.
-
Thanh (Thương) Long
-
Bạch Hổ
-
Chu Tước
-
Huyền Vũ
Trong văn hóa đại chúng
sửaTứ phương thần thú là những hình tượng quen thuộc thường xuất hiện trong văn hóa đại chúng như phim hoạt hình, truyện tranh Nhật Bản và trò chơi điện tử.
Xem thêm
sửaChú thích
sửa- ^ a b >《Kinh Lễ· Khúc lễ thượng》:Tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ. (Nguyên văn: 前朱雀而後玄武、左青龍而右白虎)
- ^ a b c >《Lễ ký· Khúc Lễ Thượng 》:Chu Tước, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ, cũng là tên của bốn phương. (Nguyên văn: 朱鳥、玄武、青龍、白虎,四方宿名也。)
- ^ Pines, Yuri. "Political Mythology and Dynastic Legitimacy in the Rong Cheng Shi Manuscript Lưu trữ 2012-04-25 tại Wayback Machine". Bulletin of SOAS, Vol. 73, No. 3 (2010), p. 515.
- ^ 陳, 久金 (tháng 7 năm 2005). 中國星占揭秘. 三民書局. tr. 23. ISBN 957-14-4263-1.
- ^ Brady, N.; Weil, R. (2014). Elements of the Nature and Properties of Soil. tr. 89.
- ^ a b 《Thái Thượng Nguyên Thủy Thiên Tôn thuyết Bắc Đế phục ma thần chú diệu kinh》:Tả Thanh Long, danh Mạnh Chương. Mão Văn. Hữu Bạch Hổ, danh Giám Binh. Dậu Văn. Tiền Chu Tước, danh Lăng Quang. Ngọ Văn. Hậu Huyền Vũ, danh Chấp Minh. Tý Văn. (Nguyên văn: 左青龍,名孟章。卯文。右白虎,名監兵。酉文。前朱雀,名陵光。午文。後玄武,名執明。子文。)
- ^ Schirokauer, Conrad; Brown, Miranda (2005). A Brief History of Chinese and Japanese Civilizations (ấn bản thứ 3). ISBN 0-534-64307-8.
- ^ Ashkenazy, Gary (ngày 16 tháng 11 năm 2016). “The Hidden or Implied Meaning of Chinese Charm Symbols – 諧音寓意 – Differences between Chinese Coins and Chinese Charms”. Primaltrek.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2018.
Liên kết ngoài
sửa- (tiếng Anh) 28 Chinese Constellations