Tục thờ ngựa hay tín ngưỡng thờ ngựa là việc thực hành hoạt động thờ phượng, cúng bái hình tượng con ngựa bằng các phương thức khác nhau, xuất phát từ việc tồn sùng loài ngựa. Tục thờ ngựa khá phổ biến ở vùng Á-Âu. Trong tâm thức của những cư dân Á-Âu, từ con vật có thực ở đời thường, với bản tính tốt đẹp mà con người đã gán cho nó, thần thánh hóa nó, huyền thoại nó do đó, con ngựa đã trở thành hình tượng nghệ thuật, trở thành con vật linh thiêng, hoá thân vào đời sống văn hoá tâm linh và được phụng thờ[1].

Tín ngưỡng thờ Ngựa
Một con tuấn mã (hình trên), ngựa tượng trưng cho tốc độ, mạnh mẽ, ánh sáng, nguồn nước và được ngưỡng mộ, tôn thờ. Đã có những bằng chứng về việc thờ ngựa ở Anh thời cổ (hình dưới)

Trong tâm thức

sửa

Con ngựa là một con vật đặc biệt, tham gia vào biểu tượng song nghĩa, đa nghĩa. Từ chỗ là bản thể của vô thức tâm linh, là bản năng của dục vọng sâu thẳm hay cõi mịt mù của bóng tối, ngựa đã vượt lên theo từng nấc thang để thụ pháp và chuyển thể thành con vật biểu tượng của thần linh, ánh sáng của mặt trời và cũng là biểu tượng của nhân cáchtrí tuệ.

Nguồn năng lực

sửa
 
Một con ngựa đang tung vó, chúng tượng trưng cho tốc độ, năng lượng

Trong quan niệm cổ xưa, ngựa là con vật có bản tính mau lẹ, hăng hái, sung mãn, được xếp dưới nguyên lý Dương của tự nhiên, và được coi là biểu trưng cho yếu tố hỏa, một số nơi người ta dùng biểu tượng ngựa để tượng trưng cho mặt trời, có nơi, ngựa là động vật hiến tế trong tín ngưỡng thờ thần mặt trời. Phần nào con ngựa cũng biểu trưng cho chu kỳ chuyển động của mặt trời, tức sự chiếu sáng, nguồn ánh sáng mang lại sự sống cho vạn vật, tiêu trừ những tai chứng, bệnh dịch. Ngựa trắng còn là biểu tượng thần thoại của mặt trời[2] Ngựa còn là linh vật liên quan mật thiết với nước.

Sự mau lẹ của con ngựa cùng với sức mạnh và khả năng đi được dặm đường xa khiến cho người ta gán cho nó những tên gọi như Gió Tây, Gió Đến, Chân Mau, Tia Chớp, Thiên Lý Mã, Phi Mã, Thần Mã, Phong Mã. Là một động vật được coi là nhanh nhẹn, "phi như bay" mà nhiều dân tộc coi ngựa là biểu tượng của tia sáng, là biểu tượng cho sự mau lẹ, sức mạnh, nghị lực, sáng tạo, giàu sang, là biểu tượng của tinh thần tự do, vượt ra mọi ranh giới để hướng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống, ngựa còn là biểu tượng của lòng trung thành, sự phóng khoáng mã thượng, vượt ra khỏi những giới hạn để vươn tới thành công.

Bản tính người

sửa

Ngựa còn được đồng nhất với bản tínhbản năng của con người. Những mô tả Nhân mã bao quanh thần Dionysos luôn được chuốc rượu cho say để khiêu khích chúng lao vào cuộc chiến với Héracles chính là thể hiện bản năng được phóng thích, với tất cả tính bồng bột, năng lực sản sinh và tính hào phóng ở ngựa (nhất là ngựa non) mà một số nơi ngựa còn được coi là biểu tượng hoàn chỉnh sự cường liệt của dục vọng. Con thiên mã màu trắng biểu thị cho bản năng đã được kiểm soát, được làm chủ, được thăng hoa, theo luân lý mới, nó là thành quả cao quý nhất của con người.

Con ngựa là vật cưỡi, là phương tiện vận chuyển, là con tàu, và số mệnh của nó không thể tách rời số mệnh con người. Ở tột đỉnh của mọi sự thăng hoa, thăng thượng, con ngựa trắng là hình ảnh tượng trưng cho sự uy nghi, là vật cưỡi của các anh hùng, các thánh nhân, những người lập nên những kỳ công tinh thần. Ngựa có hai mặt, một mặt được coi là bản ngã trung thành, nhưng mặt kia lại là bản ngã hiểm độc biểu thị cho yếu tố súc vật trong con người, xuất phát từ hai thuộc tính của giống ngựa là vật cưỡi và bị cưỡi.

Sự dẫn đường

sửa
 
Ngựa trong tâm thức con người còn đóng vai trò của kẻ dẫn đường

Khi là vật cưỡi, nhờ có con người mà ngựa có được phẩm chất bẩm sinh làm cho nó xuất hiện như một sinh linh có tài thấu thị và trở thành đôi mắt của con người trong bóng đêm, là biểu tượng của trực giác soi sáng lý trí. Khi bị cưỡi nếu bàn tay của người cưỡi dẫn nó vào con đường sai lầm thì càng gặp nhiều bóng tối, bóng ma và họ cũng có nguy cơ trở thành người liên minh với quỷ dữ, lúc này con ngựa lại là vật mang đến sự rủi ro, bạo lực.

Trên thực tế, ngựa cùng với chó là hai con vật rất đỗi thông minh và trung thành. Nếu như chó canh cho giấc ngủ yên lành và tận tuy như một người nô bộc, chó coi người như những ông chủ mà chúng phải có trách nhiệm làm đẹp lòng và bảo vệ thì con ngựa lại hoàn toàn khác, nó là vật cưỡi ương bướng (ngựa chứng). Giữa hai cơ thể sống đó đặc biệt tác động, có liên hệ và cũng là biểu hiện của 2 mặt tâm lý và tâm thức, phụ thuộc vào sự hòa hợp hay xung đột mà kết quả sẽ là cái chết hay thắng lợi.

Quan sát con ngựa khi phi nước đại giữa ban ngày, nó bị cuốn hút bởi mãnh lực của cuộc chạy, nó phóng một cách mù quáng và chỉ có người cưỡi ngựa mới mở to mắt để điều khiến nó đạt đến đích nhất định, nhưng ban đêm khi người cưỡi trở nên mù lòa thì con ngựa lại là vị chỉ huy, nó trở nên thấu thị và tự làm chủ cuộc điều khiển, với một năng lực cảm nhiệm bí hiểm mà lý trí không thể giải thích nổi, nó có thể đưa chủ nhân vượt qua mọi cửa ải một cách an toàn.

Dựa vào khả năng thấu thị trong bóng đêm của nó, con ngựa có chức năng dẫn đường, dẫn dắt linh hồn, gắn với bóng đêm, âm phủ, nên dân gian truyền tụng nếu mơ thấy ngựa đen là coi như sắp chết, ngựa đen được tượng trưng cho ác thần, hoặc là kẻ sa địa ngục, hay linh hồn bị chịu phạt. Với đặc tính có con mắt chọc thủng màn đêm, ngựa đã trở thành con vật Thần nhập và là một môn đồ trong các nghi lễ thần thánh. Với bản chất tinh tường của nó, ngựa cũng được xem như con vật của Thần và nó là biểu hiện của Thần nhập trong các nghi lễ thụ pháp.

Hệ can chi

sửa
 
Biểu tượng Ngọ

Với người Phương Đông, con ngựa gắn với những hình ảnh thực tế hơn và xuất phát từ những truyền thuyết có thật trong lịch sử. Trong hệ lịch can chi, chi Ngọ là một chi quan trọng, mang những ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc. Giờ Ngọ kéo dài từ 11 đến 13 giờ, khoảng thời gian sáng sủa nhất trong ngày (chính ngọ là đúng 12 giờ trưa, lúc Mặt Trời ở thẳng đứng trên đỉnh đầu). Tháng con ngựa là tháng Năm âm lịch, giữa mùa hạ, cây cối xanh tốt, sung mãn nhất, ra hoa kết quả nhiều nhất, con người cũng dồi dào sinh lực nhất và tương quan trời đạt đến độ hài hòa tối đa.

Trong mười hai con giáp, ngựa là con vật đứng thứ 7 cũng là vị trí của số thiêng: 2x7 = 14, tương ứng với 14 ngày khai thị cho Thân trung ấm (giai đoạn chuyển tiếp của pháp thân) và các tiến hành cầu siêu thoát cho linh hồn người đã mất của các Lạt Ma Tây Tạng: 7x7 = 49 tương ứng với 49 ngày trong tang lễ của người Việt Nam. Đây là thời gian rất quan trọng để các linh hồn siêu sinh vào các cảnh giới khác nhau). Những người tuổi Ngọ (con ngựa) cũng được đánh giá cao, người nhanh nhẹn, tràn trề nhựa sống.

Trên thế giới

sửa

Cư dân Hồi giáoĐông Nam Á có tục thờ ngựa, họ coi ngựa là con vật linh thiêng và có những quan niệm tốt đẹp về nngựa, tại một số nơi, người dân Hồi giáo coi ngựa là con vật linh thiêng của mỗi gia đình và có thờ ngựa[3]. Trong văn hóa cổ sơ vùng Trung Á, ngựa là con vật của bóng tối và những ma lực. Các thầy Pháp shaman vẫn còn lưu giữ những truyền thuyết về con ngựa của cõi âm ty, trong các nghi lễ Shaman biểu tượng về vị thần thiện là có đôi mắt ngựa cho phép nhìn thấy hết mọi sự. Người Mông Cổ coi ngựa là điển hình của sự thông tuệ và hùng hậu. Các bộ tộc Ural-Altai (Bắc Á) coi ngựa là biểu tượng tươi trẻ, là chủ thể sung mãn trong sinh sản.

 
Ngựa còn tượng trung cho nguồn nước

Tại Tây Âu, Nam Á khi mơ thấy ngựa hoặc ra đường gặp ngựa là điềm may. Người Nam Âu quan niệm con ngựa nào đi qua vùng hạn hán mà đột nhiên dừng lại, đập mạnh ngón chân xuống đất thì trời sắp mưa hoặc có mạch nước ngầm gần đó. Bộ tộc Bouriate có tập tục buộc ngựa của người mắc bệnh vào gần chỗ bệnh nhân nằm để chóng khỏi. Ở Aiien, trong ngày lễ thánh Jean, người nông dân rước và chào đón một con ngựa to làm bằng gỗ biểu tượng cho tất cả gia súc. Bộ tộc BambaraMali trong các lễ cầu mưa thường cưỡi những con ngựa gỗ có cánh tượng trưng cho các thần linh mà họ cầu khẩn đem mưa tới.

Trường phái phân tâm học Châu Âu cũng cho rằng con thiên mã màu trắng biểu thị cho bản năng đã được kiểm soát, được làm chủ, được thăng hoa theo luân lý mới. Hình ảnh con Hắc mã buộc vào cỗ xe cưới là những con ngựa của dục vọng được giải phóng đã được phản ánh trong nhiều di sản thơ văn dân gian Nga. Ngựa trong tâm thức người Hy Lạp con ngựa còn là biểu thị cho sự thăng hóa của bản năng con người.

Thần thoại Hy Lạp cũng có chi tiết Achilles đã hiến sinh bốn con ngựa cái để lập dàn thiêu trong lễ tang Patrocle, với hy vọng bốn con ngựa đó sẽ đưa người bạn thân của mình vào vương quốc của Hades (thần cai quản bóng tối). Ở vùng Arcadie nữ thần Demeter được hình dung có đầu ngựa và là nhân vật thực thi công lý nơi âm phủ. Những truyền thuyết về các cuộc truy hoan tế thần rượu Bacchus đều xuất hiện khá nhiều những cái tên mà trong cấu tạo của chúng khá phổ biến từ tố hippé (tiếng Hy Lạp là ngựa). Người La Mã thường cúng thần Mars một con ngựa trước cuộc xuất binh hoặc mùa thu hoạch để hy vọng thắng lợi.

Ấn Độ

sửa
 
Thờ Mã Đầu Minh Vương (Hayagriva) ở Ấn Độ

Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm. Cái được gọi là "ngựa gió" hay còn được biết đến với những cái tên: རླུང་རྟ་, rlung rta, lungta, lha chos, mi chos (trong tiếng Tây Tạng), хийморь, Khiimori (tiếng Mông Cổ), Rüzgar Tayi (tiếng Thổ) là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể được cưỡi đi. Điều đó muốn nói khả năng kiểm soát tâm và gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào.

Tiếng hí của một con ngựa cũng là biểu tượng sức mạnh của Đức Phật để đánh thức tâm ngái ngủ trong việc thực hành pháp. Có một vài câu chuyện về Bồ-tát Lokesvara hóa thành hình thù một con ngựa để cứu giúp chúng sanh. Trong Phật giáo có con ngựa Kiền Trắc, con ngựa của thái tử Siddhartha Gautama là con ngựa đã đưa Thái tử trốn khỏi cung điện đi tu. Ngựa cũng là phương tiện của nhiều vị thần khác và những vị hộ pháp, chẳng hạn như Mahali và có những vị thần mặt ngựa chẳng hạn như Hayagriva hoặc trong hình dạng của Khẩn Na La. Tất cả các nhân vật cứu thế đều cưỡi những con tuấn mã, ngựa trắng biểu thị cho sự phổ hóa Phật pháp.

Ngư dân ở Ấn Độ muốn đánh bắt được nhiều cá thường cúng dâng ngựa cho thần biển, thần sông. Đạo Veda của Ấn Độ có vị thần Ashvin hiện thân cho tri thức mang dáng đầu người mình ngựa (nhân mã). Các thần Ashvin đầu ngựa liên quan với sự luân phiên đêm và ngày, là con trai của Saranya là vị nữ thần của những đám mây, vợ của thần Mặt Trời Surya. Họ biểu trưng cho ánh sáng chói lọi, sáng ngời của bình minh và hoàng hôn, hiện ra trên bầu trời trước rạng đông trong cỗ xe ngựa bằng vàng, mang châu báu đến cho con người, ngăn ngừa rủi ro, bất hạnhbệnh tật.

Người theo đạo Hindu cho rằng ngựa gần với các vị thần. Hình tượng con ngựa cũng có mối quan hệ mật thiết đến các vị thần thiên tượng của Hindu như cỗ xe của thần Mặt Trời Surya kéo bởi một hay bảy con ngựa được ghi trong Rig-Veda, những con ngựa này có màu trắng hay màu cầu vồng. Cỗ xe thần Gió Vayu cũng được kéo bởi hàng nghìn con ngựa. Thần Kalki/Kalkin, vị thần biểu trưng cho tương lai, hóa thân thứ 10 của thần Vishnu là con ngựa trắng.

Trung Quốc

sửa
bên trái:tượng ngựa trắng bên ngoài lối vào chùa.bên phải:tượng con ngựa đã mang kinh thư và các nhà sư bên trong chùa

Trong truyền thống Trung Hoa cổ xưa tại các lễ thụ pháp, những tín đồ mới được gọi là tân mã (ngựa non), trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày khi bất bình với những căn tính bạo lực, độc ác người ta cũng hay gọi những kẻ đó là loại trâu ngựa, ngược lại khi muốn biểu thị sự trung thành của mình với một ai đó người ta cũng vẫn thề kiếp sau xin được làm khuyển mã để báo đáp. Lòng trung thành đối với chủ của ngựa (mã) cũng như chó (khuyển) luôn được người đời coi trọng. Người đời lập miếu thờ Quan Vũ cũng đắp tượng thờ ngựa Xích Thố, và tục này cũng lan truyền sang Việt Nam.

Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Người ta thường hiểu rằng: Long là rồng, rồng thì bay lên, nghĩa là tung, tượng trưng cho kinh tuyến, thời gian còn mã là ngựa, chạy ngang, là hoành, tượng trưng cho vĩ tuyến, không gian. Như vậy long mã tượng trưng cho sự tung hoành của nam nhi, cho thời gian và không gian, long mã chạy là biểu hiện cho vũ trụ vận động, đồng thời tượng trưng cho thánh nhân[2] đây cũng là hình tượng được tôn thờ trong các đình đền miếu mạo.

Cũng có một chùa Bạch Mã tại Hàm Dương của Trung Quốc, câu truyện về ngôi chùa bắt đầu với giấc mơ của Hán Minh đế và sự thành lập ngôi chùa năm 68 sau công nguyên nhằm tôn vinh hai nhà sư và hai con ngựa trắng đã mang họ và kinh thư tới Trung Quốc. Hai nhà sư sống tại ngôi chùa, nơi được đặt tên là Chùa Bạch Mã. Sau khi thành lập chùa, 1000 nhà sư đã sống ở đây thuyết giảng Phật giáo. Hoàng Đế được cho là đã gửi một nhà sư hoặc các nhà sư đến Ấn Độ hoặc Scythia sau đó đã trở về mang theo Kinh trên một con ngựa trắng. Đó là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Trung Quốc.

Việt Nam

sửa

Việt Nam, hình ảnh con ngựa đã in sâu vào tâm trí của nghệ sĩ dân gian, họ yêu thích, quý mến loài ngựa, muốn biến hình ảnh con ngựa thành một hình tượng nghệ thuật có tầm vóc ngang hàng với những linh vật khác được tôn thờ ở Việt Nam[4]. Ở Việt Nam, câu chuyện nổi tiếng và đặc sắc nhất về con ngựa được lưu truyền trong dân gian chính là con ngựa sắt của Thánh Gióng, trong đời sống tâm linh, Phù Đổng Thiên Vương chính là một trong tứ bất tử. Hình ảnh của con ngựa thần gắn liền với hình ảnh của Thánh tướng được người dân tôn thờ và tưởng nhớ công lao. Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa thần tung vó bay lên trời biểu trưng cho tinh thần tự do, không khuất phục trước khó khăn luôn vươn lên phía trước. Đây cũng được coi là một trong những biểu tượng của lòng dũng cảm, của ý chí, sự kiên cường và gắn với những chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm.

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ “Hình tượng con ngựa trên gốm cổ Việt Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014.
  2. ^ a b “Huyền thoại ngựa trắng”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014.
  3. ^ Ngựa trong quan niệm của người xưa
  4. ^ “Tìm hiểu con ngựa trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2017. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014.