Phổ Trang
Phổ Trang (chữ Hán: 溥莊; 15 tháng 6 năm 1830 – 13 tháng 5 năm 1872), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Phổ Trang | |
---|---|
Bối lặc | |
Nhiệm kỳ 1859-1872 | |
Tiền nhiệm | Tái Duệ |
Kế nhiệm | Dục Thu |
Tam đẳng Trấn Quốc tướng quân | |
Nhiệm kỳ 1858-1859 | |
Tiền nhiệm | không có |
Kế nhiệm | tập phong bối lặc |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 15 tháng 6, 1830 |
Mất | 13 tháng 5, 1872 |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Tái Duệ |
Anh chị em | Phổ Trăn |
Gia tộc | Ái Tân Giác La thị |
Nghề nghiệp | chính khách |
Kỳ tịch | Chính Hồng kỳ (Mãn) |
Cuộc đời
sửaPhổ Trang sinh vào giờ Tỵ, ngày 25 tháng 4 (âm lịch) năm Đạo Quang thứ 10 (1830), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai trưởng của Thành Cung Quận vương Tái Duệ, mẹ ông là Trắc Phúc tấn Quách Giai thị (郭佳氏). Năm Hàm Phong thứ 4 (1854), tháng 12, ông nhậm chức Nhị đẳng Thị vệ. Năm thứ 7 (1857), tháng 12, ông được phong tước Tam đẳng Trấn quốc Tướng quân (三等鎮國將軍), được phép vào Càn Thanh môn hành tẩu. Năm thứ 9 (1859), tháng 8, phụ thân ông qua đời, ông được tập tước Thành Thân vương đời thứ 5, nhưng vì Thành vương phủ không phải thừa kế võng thế, nên ông chỉ được phong làm Bối lặc, thưởng Tam nhãn Hoa linh.[a] Sau đó ông được thăng làm Ngự tiền đại thần. Tháng 11 cùng năm, quản lý Tổng tộc trưởng của Chính Hoàng kỳ.[b] Năm thứ 10 (1860), tháng giêng, ông được gia ân hàm Quận vương. Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), tháng 7, phái Chính tiến lục ban (正進六班). Năm thứ 5 (1866), tháng 12, thụ chức Tiền dẫn đại thần (前引大臣). Năm thứ 11 (1872), ngày 7 tháng 4 (âm lịch), giờ Mẹo, ông qua đời, thọ 43 tuổi.
Gia quyến
sửaThê thiếp
sửa- Đích Phu nhân: Trương Giai thị (張佳氏), con gái của Dung Chiếu (容照).
- Thứ thiếp: Vương thị (王氏).
Hậu duệ
sửaCon trai
sửa- Dục Phu (毓孚; 1856 – 1856), mẹ là Đích Phu nhân Trương Giai thị. Chết yểu.
- Dục Chương (毓章; 1857 – 1871), mẹ là Đích Phu nhân Trương Giai thị. Chết trẻ.
- Dục Đoan (毓端; 1858 – 1859), mẹ là Đích Phu nhân Trương Giai thị. Chết yểu.
Con thừa tự
sửaGhi chú
sửa- ^ Hoa linh là lông khổng tước được gắn trên mũ của quan viên và tông thất, trên đó sẽ có các "nhãn" hình tròn, chia làm Đơn nhãn, Song nhãn và Tam nhãn.
- ^ Những năm Ung Chính, kỳ tịch của Tông thất (Cận chi) được chia theo "Tả dực" (gồm Tương Hoàng, Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Lam) cùng "Hữu dực". Mỗi "dực" sẽ được chia làm 20 "Tộc" (như Tả dực có Tương Hoàng 1 tộc, Chính Bạch 3 tộc, Tương Bạch 3 tộc, Chính Lam 13 tộc). Vậy tổng cộng là 40 tộc với 40 Tộc trưởng. Đến những năm Càn Long, tất cả 40 tộc này được xếp vào "Viễn chi", thiết lập 16 "Tổng tộc trưởng". Mỗi Tổng tộc trưởng đều do đích thân Hoàng Đế bổ nhiệm, có thể không thuộc kỳ mình quản lý.