Natri tetracarbonylferrat
Natri tetracacbonylferrat là hợp chất hóa học có công thức Na2Fe(CO)4. Chất rắn không màu nhạy với oxy này được dùng trong tổng hợp hóa hữu cơ,[1] để tổng hợp anđehit.[2] Nó thường dùng với phức đioxan của cation natri, dung môi đioxan này còn được biết dưới tên thuốc thử Collman.[3] Anion tetracacbonylferrat có dạng tứ diện.[4]
Natri tetracarbonylferrat | |
---|---|
Cấu trúc của natri tetracacbonylferrat | |
Danh pháp IUPAC | Natri tetracacbonylferrat |
Tên hệ thống | Đinatri tetracacbonylferrat |
Tên khác | thuốc thử Collman |
Nhận dạng | |
Số CAS | |
PubChem | |
Ảnh Jmol-3D | ảnh |
SMILES | đầy đủ
|
InChI | đầy đủ
|
Thuộc tính | |
Công thức phân tử | Na2Fe(CO)4 |
Khối lượng mol | 213,8666 g/mol |
Bề ngoài | chất rắn không màu |
Khối lượng riêng | 2,16 g/cm³, dạng rắn |
Điểm nóng chảy | |
Điểm sôi | |
Độ hòa tan trong nước | phân hủy |
Độ hòa tan | tan trong tetrahydrofuran, đimetylformamit, đioxan |
Cấu trúc | |
Cấu trúc tinh thể | tứ diện lệch |
Tọa độ | tứ diện |
Các nguy hiểm | |
Nguy hiểm chính | tự bốc cháy |
Các hợp chất liên quan | |
Hợp chất liên quan | Sắt pentacacbonyl |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa). |
Tổng hợp
sửaThuốc thử đã được báo cáo bởi Cooke vào năm 1970.[5] Phản ứng tổng hợp gần đây là phản ứng khử sắt pentacacbonyl trong tetrahydrofuran bởi natri naphthenua. Hiệu suất của phản ứng phụ thuộc vào chất lượng của sắt pentacacbonyl.[1]
Nếu thiếu natri sẽ xảy ra phản ứng tạo thành natri octacacbonylđiferrat:
- 2Fe(CO)5 + 2Na → Na2Fe2(CO)8 + 2CO↑
Một số chất khử khác cũng được sử dụng như FeCl3 để tạo thuốc thử Collman:
- FeCl3 + NaC10H8 + 4CO + THF + Na → Na2Fe(CO)4
Các phản ứng
sửaChất này được mô tả đầu tiên cho phản ứng chuyển đổi ankyl bromide bậc một, RBr, thành anđehit tương ứng theo phản ứng 2 bước:[5]
- Na2Fe(CO)4 + RBr → NaRFe(CO)4 + NaBr
Dung dịch này sau đó được xử lý liên tục với PPh3 và axit axetic để thu được anđehit, RCHO.
Natri tetracacbonylferrat có thể dùng để biến đổi chloride axit thành anđehit. Về khám phá của Cooke, một phức sắt axyl trải qua quá trình chuyển proton thành anđehit.
- Na2Fe(CO)4 + RCOCl → NaRC(O)Fe(CO)4 + NaCl
- NaRC(O)Fe(CO)4 + HCl → RCHO + "Fe(CO)4" + NaCl
Natri tetracacbonylferrat phản ứng với ankyl halide (RX) để tạo phức ankyl:
- Na2Fe(CO)4 + RX → NaRFe(CO)4 + NaX
Các sắt ankyl trên có thể biến đổi thành các axit carboxylic và các halide axit tương ứng:
- NaRFe(CO)4 + O2, H+ → RCO2H + Fe...
- NaRFe(CO)4 + X2 → RC(O)X + FeX2 + 3CO↑ + NaCl
Một điều chú ý của các phương pháp trên đây là giá thành rẻ của sắt pentacacbonyl cũng như các quá trình điều chế cũng tương đối "xanh" vì các phụ phẩm là các gốc của sắt.
Tham khảo
sửa- ^ a b Strong, H.; Krusic, P. J.; San Filippo, J. (1990). Robert J. Angelici (biên tập). “Natri cacbonyl ferrat, Na2Fe(CO)4], Na2[Fe2(CO)8], và Na2[Fe3(CO)11]. bis[μ-Nitrido-bis(triphenylphotpho)(1+] Undecacacbonyltriferrat(2-), [(Ph3P)2N]2[Fe3(CO)11]”. Inorganic Syntheses. Inorganic Syntheses. New York: J. Wiley & Sons. 28: 203–207. doi:10.1002/9780470132593.ch52. ISBN 0-471-52619-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Pike, Robert D., (2001). Natri tetracacbonylferrat (II-). Bách khoa toàn thư về tác nhân cho tổng hợp hữu cơ.
- ^ Miessler, G. L., Tarr, D. A. (2004). Hóa vô cơ. Upper Saddle River,New Jersey: Pearson Publication.
- ^ H. B. Chin, R. Bau (1976). “Cấu trúc tinh thể của natri tetracacbonylferat. Sự lệch vị trí của anion tetracacbonylferat(2-) ở dạng rắn”. J. Am. Chem. Soc. 98 (9): 2434–2439. doi:10.1021/ja00425a009.
- ^ a b M. P. Cooke (1970). “Sự chuyển đổi dễ dàng từ ankyl bromide thành anđehit nhờ natri tetracacbonylferat”. J. Am. Chem. Soc. 92 (20): 6080–6082. doi:10.1021/ja00723a056.
Đọc thêm
sửa- Collman, J. P. (1975). “Disodium Tetracarbonylferrate, a Transition Metal Analog of a Grignard Reagent”. Accounts of Chemical Research. 8 (10): 342–347. doi:10.1021/ar50094a004.
- Ungurenasu, C.; Cotzur, C. (1982). “Disodium Tetracarbonylferrate: A Reagent for Acid Functionalization of Halogenated Polymers”. Polymer Bulletin. 6 (5–6): 299–303. doi:10.1007/BF00255401.
- Hieber, V. W.; Braun, G. (1959). “Notizen: "Rheniumcarbonylwasserstoff" und Methylpentacarbonylrhenium”. Zeitschrift für Naturforschung B. 14 (2): 132–133. doi:10.1515/znb-1959-0214.