Hạm đội tàu sân bay thứ năm (Đế quốc Nhật)

(Đổi hướng từ Hàng không chiến đội 5)

Hạm đội tàu sân bay thứ năm (第五航空戦隊 (Đệ ngũ Hàng không Chiến đội) Dai-Go Kōkū-Sentai?, có thể dịch là Hàng không chiến đội 5) là một đơn vị tàu sân bay thuộc Hạm đội Hàng không thứ nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đơn vị này bao gồm hai tàu sân bay ShōkakuZuikaku. Chiến đội năm cùng với bốn tàu sân bay còn lại của Kido Butai đã tham gia Cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Khi hạm đội đang rút về từ vùng chiến dịch Chiến đội 5 đóng vai trò canh chừng tàu ngầm cho hạm đội.

Hạm đội tàu sân bay thứ năm
Zuikaku và máy bay Mistubishi A6M2b kí hiệu EII-111 vào ngày 8 tháng 12 năm 1941.
Hoạt độngNgày 25 tháng 8 năm 1941 – Ngày 14 tháng 7 năm 1942
Quốc giaĐế quốc Nhật Bản
Phục vụĐế quốc Nhật Bản
Quân chủngHải quân Đế quốc Nhật Bản
Phân loạiĐơn vị không quân hải quân
Chức năngTàu sân bay
Tham chiếnCuộc tấn công Trân Châu Cảng
Cuộc không kích vào Ấn Độ Dương
Trận chiến biển San Hô
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
Hara Chūichi
Huy hiệu
Biểu tượng
nhận dạng
EI (Shōkaku)
EII (Zuikaku)
EIII (Zuihō)

Chiến đội còn tham gia cuộc không kích vào Ấn Độ Dươngtrận biển San hô giúp đánh chìm ba tàu chiến của Anh rồi đánh chìm tàu sân bay USS Lexington của Mỹ. Do thiệt hại cho chiếc Shōkaku và phi đội của Zuikaku, Chiến đội năm đã bỏ qua trận Midway. Thất bại tại Midway buộc Hải quân Nhật phải chỉ định lại tàu sân bay của Chiến đội 5 cùng với tàu sân bay hạng nhẹ Zuihō sang Chiến đội 1 dẫn đến việc giải thể Chiến đội 5.

Số phận

sửa

Sau khi Chiến đội 5 bị giải thể, ShōkakuZuikaku tiếp tục chiến đấu đến những năm cuối cuộc chiến nhưng cả hai đều không sống sót sau chiến tranh. Shōkaku bị tàu ngầm Mỹ USS Cavalla (SS-244) đánh chìm trong Trận chiến biển Philippines. Vụ nổ do nhiên liệu máy bay(avgas) đã đẩy nhanh quá trình chìm, và nó đã dìm theo hơn 1.000 thủy thủ xuống cùng. Zuikaku tiếp tục tham gia Trận chiến vịnh Leyte với vai trò là kỳ hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản với Đô đốc Jisaburo Ozawa trên tàu. Nó bị máy bay tàu sân bay Mỹ tấn công và đánh chìm, mang theo 800 người cùng với tàu sân bay hạng nhẹ Zuihō. Ozawa sống sót và chuyển vị trí chỉ huy sang tàu tuần dương hạng nhẹ Oyodo. Đến giai đoạn đó của cuộc chiến, giới hạn về xăng và phi công buộc Hải quân Nhật phải sử dụng các tàu sân bay còn lại của làm mồi nhử.

Cơ cấu tổ chức

sửa
Ngày Tàu
Ngày 25 tháng 8 năm 1941 (ban đầu) Shōkaku, Oboro, Sazanami
Ngày 5 tháng 9 năm 1941 Shōkaku, Kasuga Maru, Oboro, Sazanami
Ngày 17 tháng 9 năm 1941 Shōkaku, Kasuga Maru, Oboro, Akigumo
Ngày 25 tháng 9 năm 1941 Shōkaku, Zuikaku, Oboro, Akigumo
Ngày 10 tháng 4 năm 1942 Shōkaku, Zuikaku
Ngày 20 tháng 6 năm 1942 Shōkaku, Zuikaku, Zuihō
Ngày 14 tháng 7 năm 1942 Giải thể, tất cả các tàu đã được chuyển đến Hàng không chiến đội 1.

Tham khảo

sửa
  • Peattie, Mark R. (1999). Sunburst: The Rise of Japanese Naval Air Power 1909-1941. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-664-X.
  • Goldstein, Donald M., Dillon, Katherine V. (1993). The Pearl Harbor papers: Inside the Japanese Plans. Dulles, Virginia: Brassey's. ISBN 1-57488-222-8.
  • Tàu sân bay Nhật Bản Shōkaku, “KnowledgeRush”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2011.
  • The Maru Special, Ushio Shobou (Ushioshobokojinsha Co., Ltd.), Tōkyō, Nhật Bản.
    • Tàu hải quân Nhật Bản số 6, tàu sân bay Shōkaku, Zuikaku, 1976.
    • Tàu hải quân Nhật Bản số 12, tàu khu trục loại đặc biệt III, 1978.
    • Tàu hải quân Nhật Bản số 38, tàu sân bay Nhật Bản II, 1980.
    • Tàu hải quân Nhật Bản số 41, tàu khu trục Nhật Bản I, 1980.
    • Cơ chế tàu chiến Vol. 3, Cơ chế của 29 tàu sân bay Nhật Bản, 1981.
  • Senshi Sōsho, Asagumo Shimbun, Tōkyō, Nhật Bản.
    • Tập 91, Hạm đội kết hợp số 1, "Cho đến khi chiến tranh bùng nổ", 1975
    • Tập 80, Hạm đội kết hợp số 2, "Cho đến tháng 6 năm 1942", 1975