Gaspard de la nuit, tên đầy đủ là Gaspard de la nuit, Trois poèmes pour piano d'après Aloysius Bertrand (tiếng Việt: Gaspard của ban đêm , ba bài thơ dành cho đàn piano của Aloysius Bertrand) là liên khúc solo cho piano của nhà soạn nhạcngười PhápMaurice Ravel. Ông viết tác phẩm này vào năm1908. Tác phẩm đã thể hiện kỹ xảo điêu luyện hiếm có trong thủ pháp sáng tác của Ravel[1]. Tác phẩm được công diễn tại Paris vào ngày 9 tháng 1 năm 1909 dưới bàn tay của nghệ sĩ dương cầm Ricardo Viñes.
Tác phẩm được viết theo hình thức 3 chương gần giống như hình thức Sonata (nhanh - chậm - nhanh), gồm 3 phần: Ondine (Nữ thần biển cả Ondine), Le Gibet (Giá treo cổ), Scarbo (Quỷ lùn Scarbo). Mỗi tác phẩm đều yêu cầu trình độ rất khó. Trong số đó, tác phẩm Scarbo được xem như là một thử thách rất lớn đối với các nghệ sĩ dương cầm cho đến nay.
Gaspard de la nuit được Maurice Ravel phổ nhạc qua chùm thơ cùng tên của Bertrand. Gaspard là từ có nguồn gốc từ xứ Persia cổ đại "Casper", nghĩa là: " Người coi giữ kho báu hoàng gia "
Aloysius Bertrand kể lại cuộc gặp gỡ với một người lạ mặt. Biết rằng Bertrand là một nhà thơ, ông ấy đã kể lại về cuộc đời mình đang tìm kiếm ý nghĩa của nghệ thuật[2]. Sau đó ông ta tự hỏi, cái gì tạo nên nghệ thuật. Trải qua nhiều nghiên cứu với thiên nhiên, với những thành tựu nghệ thuật của con người suốt 30 năm, và cái giá phải trả đó chính là tuổi trẻ, Ông tự hỏi liệu những thứ đó đến từ địa ngục, từ quỷ Satan ? Trong một đêm bão bùng cầu nguyện ở nhà thờ Đức Bà Dijon, ông nhận ra Satan không có thật, nghệ thuật được tạo ra dưới ánh sáng của Chúa trời, và chúng ta là những kẻ sao chép của Tạo hóa.
Và thế, ông đưa cho nhà thơ một cuốn sách. Đó chính là những bài thơ của ông. Về sau Bertrand đã xuất bản tập thơ này với cái tên Gaspard de la nuit.