Festen
Festen (tên khác là The Celebration) là một phim của Đan Mạch, do Thomas Vinterberg đạo diễn và do hãng Nimbus Film sản xuất năm 1998. Đây là phim đầu tiên thuộc phong trào làm phim tiền phong Dogme 95 do các đạo diễn Đan Mạch đề xướng.
Festen
| |
---|---|
Đạo diễn | Thomas Vinterberg |
Tác giả | Thomas Vinterberg, Mogens Rukov |
Sản xuất | Birgitte Hald, Morten Kaufmann |
Diễn viên | Ulrich Thomsen, Henning Moritzen, Thomas Bo Larsen, Paprika Steen, Birthe Neumann, Trine Dyrholm |
Dựng phim | Valdís Óskarsdóttir |
Âm nhạc | Lars Bo Jensen |
Phát hành | Alfa Films (Argentina), Arthaus Filmverleih (Đức), Atalanta Filmes (Bồ Đào Nha), Budapest Film (Hungary), Cinemien (Hà Lan), Cult Filmes (Brazil, VHS), Europafilm AS (Na Uy), Gativideo (Argentina), Golem Distribución S.L. (Tây Ban Nha), Les Films du Losange (Pháp), Maywin Media (Nga), October Films (Hoa Kỳ), Prem'er Video Fil'm (Nga), Scanbox Danmark (Đan Mạch), Triangelfilm (Thụy Điển), Versátil (Brazil, DVD) |
Công chiếu | Tháng 5 năm 1998 |
Thời lượng | 105 min. |
Ngôn ngữ | tiếng Đan Mạch |
Kinh phí | $1.300.000 (ước tính) |
Cốt truyện
sửaGia trưởng đáng kính, doanh nhân Helges (Henning Moritzen) mở tiệc mừng sinh nhật thứ 60 của mình. Các người trong gia đình gồm người vợ trung thành Elsa, hai con trai Christian (Ulrich Thomsen), Michael (Thomas Bo Larsen) và con gái Helene, họ hàng thân thuộc cùng các khách mời tới dự rất đông tại 1 phòng lớn ở khách sạn của gia đình. Trước đó - Linda, con gái đầu lòng song sinh của Helges - mới tự tử trong 1 phòng khác. Helene tìm thấy thư tuyệt mệnh của Linda, nhưng giấu đi.
Mở đầu buổi tiệc, người con trai trưởng song sinh với Linda là Christian (cư ngụ ở Paris) nói lời chào mừng các khách. Sau đó anh ta tố cáo cha đã lạm dụng tình dục anh ta và Linda lúc còn trẻ. Người mẹ biết chuyện nhưng im lặng không phản đối. Hai người em Helene và Michael không hề hay biết bí mật của gia đình. Mọi người ngạc nhiên sửng sốt, không ai có thể tin là một người đáng quý như Helges lại có thể làm tình với chính các con của mình.
Người em và hai người nữa tống cổ Christian ra ngoài, nhưng anh ta lại trở vào phòng và lại tố cáo, và lại bị tống cổ ra ngoài lần thứ hai. Mẹ anh ta, bà Elsa tìm cách nói với các khách là chuyện đó không có thật, chỉ là bịa đặt.
Cuối cùng lời tố cáo của Christian được em gái Helene xác nhận là có thật và đưa ra lá thư tuyệt mệnh của Linda để làm chứng.
Nguồn gốc cốt truyện
sửaTrong 1 show truyền thanh trên kênh P1 của đài truyền thanh Đan Mạch phát ngày 28.3.1996, một chàng trai tên "Allan" 34 tuổi, ở vùng nam Jutland, đã kể cho người dẫn chương trình Keld Koplev về người cha của mình, chủ một khách sạn, đã lạm dụng tình dục mình và người em gái song sinh. Thomas Vinterberg nghe được show đó, bèn tìm gặp nhà viết kịch bản Mogens Rukov, và 2 người cộng tác viết ra cốt truyện phim.[1]
Năm 1999, ký giả Claus Christensen thấy câu chuyện này có gì đó đáng ngờ. Claus liền nghiên cứu các thông tin của Koplevs Krydsfelt và phát hiện nhiều điều đáng nghi: tỷ lệ tử vong trong gia đình Allan cao một cách đáng ngờ - chưa đầy 1 năm mà người yêu của anh ta, người em gái song sinh và người mẹ đều chết. Ngoài ra tuổi của các người em cùng cha khác mẹ với anh ta lẫn lộn lung tung và anh ta phải bịa ra để giải thích về lớp 11 trong một trường nội trú. Claus Christensen liền tiếp xúc với Keld Koplev, người này nói cũng cảm thấy nghi ngờ chuyện của Allan, nhưng chưa tìm ra sự thật.
Tới năm 2002, nữ ký giả Lisbeth Jessen của đài Truyền thanh Đan Mạch mới tìm được "Allan", và anh ta thú nhận rằng đã bịa ra chuyện nói trên. Nữ ký giả này liền đưa sự thật lên đài phát thanh, kênh P1 do chính mình biên tập (chương trình này đã được bầu chọn là chương trình phát thanh biên tập hay nhất và đoạt giải Prix Italia năm 2003)[2]
Các vai diễn
sửaDiễn viên | Vai diễn |
---|---|
Ulrich Thomsen | Christian |
Henning Moritzen | người cha |
Thomas Bo Larsen | Michael |
Paprika Steen | Helene |
Birthe Neumann | người mẹ |
Trine Dyrholm | Pia |
Helle Dolleris | Mette |
Therese Glahn | Michelle |
Klaus Bondam | người điều khiển buổi tiệc |
Bjarne Henriksen | đầu bếp |
Gbatokai Dakinah | Gbatokai |
Lasse Lunderskov | người chú |
Lars Brygmann | người tiếp tân |
Lene Laub Oksen | em gái |
Linda Laursen | Birthe |
John Boas | ông nội |
Erna Boas | bà nội |
Các kịch bản sân khấu chuyển thể
sửaThe Celebration thường được chuyển thể thành kịch bản sân khấu. Tính tới năm 2008 đã có các kịch bản sân khấu chuyển thể từ phim này sang tiếng Anh, tiếng Đan Mạch, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Nam Phi, tiếng Hy Lạp, tiếng Phần Lan, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Thụy Điển, tiếng Ba Lan, tiếng Cộng hoà Séc và tiếng Slovenia.
Festen, kịch bản sân khấu chuyển thể sang tiếng Anh giữ nguyên tên tiếng Đan Mạch, do David Eldridge viết, có suất diễn đầu tiên tại rạp Almeida Theatre năm 2004, do Rufus Norris đạo diễn, sau đó chuyển tới các rạp West End, Lyric Theatre, Shaftesbury Avenue tới tháng 4/2005. Tháng 2/2006 vở kịch này được lưu diễn một vòng khắp vương quốc Anh, rồi chuyển sang Broadway. Tuy rất thành công ở London, nhưng vở kịch này chỉ trình diễn được 49 buổi ở Broadway, kết thúc ngày 20.5.2006. Tháng 7/2006 vỏ kịch này được trình diễn ở Melbourne, Úc, với ngôi sao Jason Donovan. Một vở kịch chuyển thể của Ireland (cũng dưới tên Festen được diễn ở rạp Gate Theatre, Dublin từ tháng 9/2006 tới tháng 11/2006.
Năm 2006, vở kịch chuyển thể sang tiếng Mexico được trình diễn với ngôi sao Diego Luna. Tháng 9/2007 vở kịch chuyển thể sang tiếng Peru với các ngôi sao Paul Vega và Hernan Romero, do Chela de Ferrari đạo diễn.
Company Theatre [1] cho diễn vở kịch chuyển thể Festen này buổi đầu tiên ở Canada trong tháng 11/2008 ở rạp Berkeley Street Theatre tại Toronto. Vở kịch này do Jason Byrne đạo diễn với các ngôi sao Eric Peterson, Rosemary Dunsmore, Nicholas Campbell, Philip Riccio, Allan Hawco, Tara Rosling, Caroline Cave, Richard Clarkin, Earl Pastko, Milton Barnes, Gray Powell & Alex Paxton-Beesley.
Các giải thưởng
sửa- Giải Amanda, Na Uy (1998): Phim truyện Bắc Âu hay nhất - Thomas Vinterberg
- Giải Bodil (1999):
- Nam diễn viên xuất sắc nhất - Ulrich Thomsen
- Phim hay nhất - Thomas Vinterberg
- Liên hoan phim quốc tế Canberra (1999): Giải của khán giả - Thomas Vinterberg
- Liên hoan phim Cannes (1998): Giải của Ban giám khảo - Thomas Vinterberg (đồng hạng với La Classe de Neige (1998))
- Giải Phim châu Âu (1998): Giải Khám phá mới trong năm - Thomas Vinterberg (đồng hạng với "La vie rêvée des anges"(1998))
- Liên hoan phim quốc tế Gijón (1998): Đạo diễn xuất sắc nhất - Thomas Vinterberg
- Giải Guldbagge (1999): Phim nước ngoài hay nhất - Thomas Vinterberg
- Giải Independent Spirit (1999): Phim nước ngoài hay nhất - Thomas Vinterberg
- Giải của Hiệp hội phê bình phim Los Angeles cho phim ngoại ngữ hay nhất (1998) - Thomas Vinterberg
- Các ngày phim Bắc Âu Lübeck (1998):
- Giải của khán giả "Lübecker Nachrichten" - Thomas Vinterberg
- Giải phim Baltic cho phim Bắc Âu - Thomas Vinterberg
- Giải của Ban giám khảo phong trào Đại kết - Thomas Vinterberg
- Giải thưởng của Hội phê bình phim New York (1998): Phim ngoại ngữ hay nhất - Thomas Vinterberg
- Liên hoan phim quốc tế Na Uy (1999): Phim nước ngoài hay nhất - Thomas Vinterberg
- Giải Robert (1999):
- Nam diễn viên xuất sắc nhất - Ulrich Thomsen
- Quay phim tốt nhất - Anthony Dod Mantle
- Biên tập tốt nhất - Valdís Óskarsdóttir
- Phim hay nhất - Thomas Vinterberg
- Kịch bản hay nhất - Thomas Vinterberg, Mogens Rukov
- Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Thomas Bo Larsen
- Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất - Birthe Neumann
- Liên hoan phim quốc tế Rotterdam (1999): Giải của khán giả - Thomas Vinterberg
- Liên hoan phim quốc tế São Paolo (1998): Hạng danh dự - Thomas Vinterberg
Tham khảo
sửa- ^ Der var engang en fest - af Claus Christensen, Filmagasinet Ekko, 18. maj 2003 {Danish language|Danish}
- ^ Efter Festen - DR Dokumentarzonen, Montage, 27. september 2003