Vương Kính
Vương Kính ( tiếng Trung: 王劲; 12 tháng 12 năm 1926 - 6 tháng 2 năm 2020) là một nhà khảo cổ học người Trung Quốc có trọng tâm nghiên cứu là các địa điểm thời tiền sử ở đồng bằng Giang Hán . Là một trong những nhà nữ khảo cổ học đầu tiên của Trung Quốc, bà là thành viên của nhóm khám phá nền Văn hóa Khuất Gia Lĩnh thời kỳ đồ đá mới . Sau đó, bà đã lãnh đạo cuộc khai quật các địa điểm lớn bao gồm mỏ đồng cổ Đồng Lục Sơn và di chỉ Bàn Long Thành thời nhà Thương . Bà từng là lãnh đạo Đội Khảo cổ học tỉnh Hồ Bắc, Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc và Chủ tịch Hiệp hội Khảo cổ học Hồ Bắc.
Vương Kính | |
---|---|
王劲 | |
Sinh | Hoàng Bi, Hồ Bắc, Trung Hoa Dân Quốc | 12 tháng 12 năm 1926
Mất | 6 tháng 2 năm 2020 Vũ Hán, Trung Quốc | (93 tuổi)
Quốc tịch | Trung Quốc |
Nghề nghiệp | Nhà khảo cổ học, phó giám đốc bảo tàng |
Trình độ học vấn | |
Học vấn | Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, Bộ Văn hóa, Viện khảo cổ Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Đại học Bắc Kinh |
Sự nghiệp học thuật | |
Ngành | Khảo cổ học |
Ngành phụ | Thời tiền sử |
Nơi công tác | Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, Hiệp hội khảo cổ Hồ Bắc |
Quan tâm chính | Đồng bằng Giang Hán Luyện kim |
Sự nghiệp
sửaVương Kính sinh ngày 12 tháng 12 năm 1926 tại Hoàng Bi, Hồ Bắc, Trung Hoa Dân Quốc.[1] Bà tốt nghiệp Trường Sư phạm Nữ sinh số 2 Hồ Bắc năm 1949.[2][3]。
Bà làm việc tại Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc từ năm 1954 và tham gia chương trình đào tạo khảo cổ học do Bộ Văn hóa, Viện khảo cổ Viện Khoa học xã hội Trung Quốc và khoa lịch sử Đại học Bắc Kinh phối hợp thực hiện.[1] Bà là một trong những nhà nữ khảo cổ học đầu tiên của Trung Quốc tham gia cuộc khai quật khảo cổ học ở đồng bằng Giang Hán và phát hiện ra nền văn hóa Khuất Gia Lĩnh thời kỳ đồ đá mới; sau đó bà đã tham gia khai quật Di chỉ Thạch Gia Hà ở Thiên Môn, Phương Ưng Đài ở Vũ Xương và Mao Gia Chủy ở Kỳ Xuân.[1]
Sau đó, bà lãnh đạo Đội khảo cổ tỉnh Hồ Bắc khai quật mỏ đồng cổ Đồng Lục Sơn ở Đại Dã , di chỉ Bàn Long Thành thời nhà Thương ở Hoàng Bi, di chỉ Thất Lý Hà ở huyện Phòng, và Lăng mộ Mã Sơn số 1 ở Giang Lăng.[1] Từ năm 1980 đến năm 1996 bà giữ chức vụ Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc và Chủ tịch Hiệp hội Khảo cổ học Hồ Bắc.[3] Năm 1989, bà làm cố vấn cho Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc. Bà nghỉ hưu năm 1990.[1] Năm 1993, bà làm cố vấn cho Hiệp hội Nghiên cứu Vũ Hán.[4]
Vào ngày 6 tháng 2 năm 2020, bà qua đời vì bệnh lao cột sống ngực ở Vũ Hán, thọ 93 tuổi.[1]
Đóng góp
sửaTrọng tâm nghiên cứu chính của bà là các di chỉ thời tiền sử ở đồng bằng Giang Hán.[5] Công trình tiên phong của bà đã giúp thiết lập khuôn khổ của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới ở khu vực trung lưu sông Dương Tử. Bà đã khám phá sự tương tác văn hóa giữa Trung Nguyên và vùng Dương Tử, đồng thời giúp hiểu sâu hơn về công nghệ luyện kim của Trung Quốc cổ đại.[1]
Tham khảo
sửa- ^ a b c d e f g Yue, Huairang (7 tháng 2 năm 2020). “中国第一代女考古学家王劲病逝,享年94岁”. The Paper. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
- ^ Liang Gang 梁刚 (3 tháng 5 năm 2017). “专家简介——王劲”. Government of Qujialing. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.[liên kết hỏng]
- ^ a b 中国共产党人名大辞典. 中国国际广播出版社. 1991年. tr. 第26页. ISBN 9787800358739.
- ^ 王然 (2013). “疾风知劲草——王劲先生访谈录”. 南方文物 (4): 15–22. ISSN 1004-6275.
- ^ Wang Wei 王巍 biên tập (2014). 中国考古学大辞典 [Great Dictionary of Chinese Archaeology] (bằng tiếng Trung). Shanghai Cishu Chubanshe. tr. 91. ISBN 978-7-5326-4027-0. OCLC 889734502.