Vũ Đình Đào
Vũ Đình Đào (1931), nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam, nguyên là cơ sở của Hải quân Pháp bàn giao cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Ông đã tuần tự phục vụ từ chức vụ nhỏ trong các đơn vị Thủy binh cho đến sau cùng giữ chức Tư lệnh một Hải khu (Vùng Duyên hải) trong Quân chủng Hải quân.
Vũ Đình Đào | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1/1973 – 4/1975 |
Cấp bậc | -Đại tá (11/1970) -Chuẩn tướng (4/1974) |
Tư lệnh Hải quân Vùng 4 Sông ngòi | |
Nhiệm kỳ | 11/1970 – 1/1973 |
Cấp bậc | -Đại tá |
Tham mưu phó Hành quân tại Bộ tư lệnh Hải quân | |
Nhiệm kỳ | 4/1968 – 11/1970 |
Cấp bậc | -Trung tá (6/1967) |
Chỉ huy trưởng đơn vị Hải lực | |
Nhiệm kỳ | 3/1966 – 6/1967 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (11/1965) -Trung tá |
Chỉ huy phó đơn vị Hải lực | |
Nhiệm kỳ | 11/1965 – 3/1966 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | Tháng 1 năm 1931 Hải Phòng, Liên bang Đông Dương |
Nơi ở | California, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Con cái | 4 người con |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Alma mater | -Trường Trung học Chu Văn An, Hà Nội -Trường Hàng hải Thương thuyền của Pháp tại Sài Gòn -Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang -Truòng Võ bị Hải quân US Naval, Hoa Kỳ -Trường Cao đẳng Hải chiến, Hoa Kỳ. |
Quê quán | Bắc Kỳ |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1953-1975 |
Cấp bậc | Chuẩn tướng |
Đơn vị | Quân chủng Hải quân |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Tặng thưởng | B.quốc H.chương V[1] |
Tiểu sử & Binh nghiệp
sửaÔng sinh vào tháng 1 năm 1931 trong một gia đình khá giả tại Hải Phòng, miền duyên hải Bắc phần Việt Nam. Thuở thiếu thời ông học Tiểu học tại Hải Phòng. Khi học lên trên, ông được gia đình gửi ra Hà Nội học ở trường Trung học Chu Văn An (trường Bưởi). Tốt nghiệp Tú tài bán phần Pháp (Part I). Năm 1952, ông thi vào trường Hàng hải Thương thuyền tại Sài Gòn. Sau một năm tốt nghiệp với bằng Thuyền trưởng.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
sửaGiữa năm 1953, sau khi tốt nghiệp ngành Hàng hải, ông nhập ngũ vào Hải quân của Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/700.010. Ông được theo học khóa 3 tại trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, khai giảng vào tháng 7 năm 1953, Tháng Giêng năm 1954 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Hải quân Thiếu úy ngành Chỉ huy. Sau đó phục vụ trên Chiến hạm Hải quân Pháp.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
sửaCuối năm 1955, sau khi Quân đội Quốc gia được chính thể Đệ nhất Cộng hòa cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. chuyển sang phục vụ cơ cấu mới ông được thăng cấp Hải quân Trung úy và được giữ chức vụ Hạm trưởng Giang pháo hạm HQ-31 của Hải quân Việt Nam. Đầu năm 1957, ông được chuyển sang làm Hạm trưởng Hải vận hạm Ninh Giang HQ-403. Giữa năm 1958, ông tái nhiệm lần thứ 2 làm Hạm trưởng HQ-31 và tháng 10 năm 1959, một lần nữa ông được chỉ định trở lại làm Hạm trưởng HQ-403.
Tháng 6 năm 1960, ông được cử sang Hoa Kỳ du học. Đầu năm 1961, tốt nghiệp khoá General Line tại trường U.S Naval Post-Graduate School ở Monterey, California. Về nước, ông nhận lệnh ra Nha Trang làm Huấn luyện viên ở Trung tâm Huấn luyện Hải quân.
Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11). Ngày 5 tháng 11 ông được thăng cấp Hải quân Đại úy chuyển về Bộ tư lệnh Hải quân làm Trưởng phòng 3. Giữa năm 1964, ông được chỉ định làm Hạm trưởng Hộ tống hạm Chí Linh HQ-11 do Hoa Kỳ chuyển giao cho Hải quân Việt Nam tại Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1965, ông được thăng cấp Hải quân Thiếu tá giữ chức Chỉ huy phó Hải lực. Tháng 3 năm 1966, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng đơn vị này (sau này Hải lực được nâng lên thành Hạm đội và chức Chỉ huy trưởng trở thành Tư lệnh).
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1967, ông được thăng cấp Hải quân Trung tá và được cử đi du học ở trường Chỉ huy cao cấp U.S Naval Command Collge (Naval War Collge) tại Newport, Rhode Island, Hoa Kỳ. Đến tháng 4 năm 1968, mãn khóa học về nước ông được cử giữ chức Tham mưu phó Hành quân tại Bộ Tư lệnh Hải quân.
Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1970, ông được thăng cấp Hải quân Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Vùng 4 sông ngòi (Bộ tư lệnh đặt tại Cần Thơ).
Đầu năm 1973, ông chuyển sang giữ chức vụ Tư lệnh Vùng 3 Duyên hải (Hải khu 3, đồn trú tại Căn cứ Cát Lở, Vũng Tàu). Ngày 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng tại nhiệm.
1975
sửaChiều ngày 29 tháng 4, ông di tản ra khơi trên Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ-802, Hạm trưởng là Hải quân Trung tá Vũ Quốc Công.[2] Sau đó, ông sang định cư tại Nam California, Hoa Kỳ.
Huy chương
sửa-Bảo quốc Huân chương đệ ngũ đẳng
-Một số huy chương quân sự và dân sự.
Gia cảnh
sửaÔng có một vợ và 4 người con.
Chú thích
sửaTham khảo
sửa- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.