USS Porpoise (SS–172) là chiếc dẫn đầu của một lớp tàu ngầm mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá heo chuột.[1] Nó đã phục vụ trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, thực hiện tổng cộng sáu chuyến tuần tra và đánh chìm được ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.741 tấn.[10] Đến năm 1943, nó được rút về để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Con tàu ngừng hoạt động vào năm 1945 và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1957. Porpoise được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tàu ngầm USS Porpoise (SS-172). Ngày 20 tháng 7 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Porpoise
Đặt tên theo loài cá heo chuột [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth Naval Shipyard, Kittery, Maine[2]
Đặt lườn 27 tháng 10, 1933 [2]
Hạ thủy 20 tháng 6, 1935 [2]
Người đỡ đầu cô Eva Croft
Nhập biên chế 15 tháng 8, 1935 [2]
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1945 [2]
Xóa đăng bạ 13 tháng 8, 1956 [2]
Danh hiệu và phong tặng 5 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 14 tháng 5, 1957 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Porpoise Kiểu P-1 [3]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.310 tấn Anh (1.330 t) (mặt nước) [4]
  • 1.934 tấn Anh (1.965 t) (lặn) [4]
Chiều dài
  • 283 ft (86 m) (mực nước) [5]
  • 301 ft (92 m) (chung) [4][5]
Sườn ngang 24 ft 11 in (7,59 m) [4]
Mớn nước 13 ft 10 in (4,22 m) [4]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 6.000 hải lý (11.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) [4]
  • 22.000 hải lý (41.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h) khi chứa dầu FO trong thùng dằn [4]
Tầm hoạt động
  • 10 giờ khi lặn ở tốc độ 5 kn (5,8 mph; 9,3 km/h)
  • 36 giờ ở tốc độ tối thiểu [4]
Độ sâu thử nghiệm 250 ft (80 m) [4]
Sức chứa 89.945 galông Mỹ (340.480 L) dầu FO (tiêu biểu) [9]
Thủy thủ đoàn tối đa 5 sĩ quan, 9 chuẩn úy, 42 thủy thủ [9]
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo

sửa

Lớp tàu ngầm Porpoise Kiểu P-1 do Xưởng hải quân Portsmouth phát triển có cấu trúc vỏ kép toàn bộ, về thực chất là một phiên bản mở rộng của lớp Cachalot dẫn trước. Chúng là những tàu ngầm Hoa Kỳ sau cùng còn sử dụng kết cấu bằng đinh tán cho một phần con tàu; mọi lớp tàu ngầm sau này sẽ áp dụng kỹ thuật hàn cho toàn bộ cấu trúc con tàu.

Porpoise dài khoảng 301 foot (92 m) và trọng lượng choán nước khi lặn 1.934 tấn Anh (1.965 t), với một cấu trúc thượng tầng tháp chỉ huy lớn và cồng kềnh. Tốc độ tối đa chỉ đạt khoảng 18 hải lý trên giờ (33 km/h) để duy trì độ bền cho động cơ, nhưng một cải tiến nhằm chứa dầu FO trong các thùng dằn chính đã giúp tăng gần gấp đôi tầm xa hoạt động, giúp nó có thể hoạt động tuần tra đến tận các đảo chính quốc Nhật Bản.[11] Động cơ diesel Winton Kiểu 16-201A hai thì 16-xy lanh gặp phải nhiều trục trặc trong vận hành, nên sau này được thay thế bằng động cơ General Motors Kiểu 12-278A.[9]

Vũ khí trang bị chính ban đầu chỉ có sáu ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, cùng một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và hai súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Trong chiến tranh Porpoise được tăng cường thêm hai ống phóng ngư lôi trước mũi[12][13] và nâng cấp lên súng máy M2 Browning .50-caliber (12,7 mm).

Porpoise được đặt lườn tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 27 tháng 10, 1933. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 6, 1935, được đỡ đầu bởi cô Eva Croft, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 8, 1935 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Stuart S. Murray.[1][14][15]

Lịch sử hoạt động

sửa

1936 - 1941

sửa

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi New Engand, Porpoise băng qua kênh đào Panama để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương tại San Diego, California vào ngày 1 tháng 9, 1936. Sau khi thực hành tác xạ và phóng ngư lôi tại vùng bờ Tây, nó đã tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XVIII tại khu vực quần đảo Hawaii vào tháng 4tháng 5, 1937. Sau khi trải qua đợt đại tu tại Xưởng hải quân Mare IslandVallejo, California, nó đi đến Trân Châu Cảng vào tháng 1, 1938 để thực hành cơ động hạm đội, rồi lên đường đi Manila, Philippines vào ngày 19 tháng 11, 1939 để gia nhập Hạm đội Á Châu. Từ tháng 12, 1939 đến tháng 12, 1941, nó tham gia nhiều đợt thực hành và tập trận cùng Lực lượng Tàu ngầm, Hạm đội Á Châu.

Thế Chiến II

sửa

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương, Porpoise đang được đại tu tại Olongapo, Philippines. Nó nhanh chóng hoàn tất việc sửa chữa và đi đến Manila vào ngày 20 tháng 12, rồi lên đường hai ngày sau đó cho chuyến tuần tra đầu tiên từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 31 tháng 1, 1942. Nó đã hoạt động tại các khu vực vịnh Lingayenbiển Đông ngoài khơi Đông Dương thuộc Pháp, rồi khi rút lui ngang qua Balikpapan, Borneo, nó đã tấn công hai tàu vận tải mà không rõ kết quả trước khi đi đến Surabaya, Java.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

sửa

Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 9 tháng 2 đến ngày 30 tháng 3, 1942 tại vùng biển Đông Ấn thuộc Hà Lan, Porpoise đã phóng ngư lôi tấn công và đánh trúng một tàu chở hàng trước khi quay trở về căn cứ tại Fremantle, Australia. Trong chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 17 tháng 6, nó quay trở lại vùng biển Đông Ấn, tấn công một tàu buôn không có kết quả, và cứu vớt năm thành viên một đội bay khỏi một hòn đảo do đối phương kiểm soát. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ Trân Châu Cảng, rồi tiếp tục quay trở về vùng bờ Tây để được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island.[1]

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

sửa

Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 11, 1942 cho chuyến tuần tra thứ tư ngoài khơi bờ biển đảo Honshū, Nhật Bản, Porpoise đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Renzan Maru (4.999 tấn) vào ngày 1 tháng 1, 1943, rồi kết thúc chuyến tuần tra khi quay về Midway vào ngày 15 tháng 1. Trong chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày 6 tháng 2 đến ngày 15 tháng 4 ngoài khơi đảo Jaluit, nó tiếp tục đánh chìm tàu chở hàng Koa Maru (2.024 tấn) vào ngày 4 tháng 4. Con tàu rút lui về căn cứ Trân Châu Cảng để được tái trang bị.[1]

Chuyến tuần tra thứ sáu

sửa

Trong chuyến tuần tra thứ sáu từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 28 tháng 7, Porpoise đã tiến hành trinh sát đảo Taroa và khu vực quần đảo Marshall. Nó phóng ngư lôi đánh trúng hai tàu chở hàng, rồi đánh chìm tàu chở hành khách Mikage Maru số 20 (2.718 tấn) vào ngày 19 tháng 7, trước khi kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng.[1]

1943 - 1945

sửa

Do thùng chứa nhiên liệu thường xuyên bị rò rỉ, Porpoise được rút về để đảm nhiệm vai trò huấn luyện tại Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut từ tháng 9, 1943. Ngoại trừ một giai đoạn đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia vào tháng 5tháng 6, 1944, nó đảm trách vai trò này cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Nó được cho xuất biên chế tại Boston vào ngày 15 tháng 11, 1945,[1][14][15] và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương cho đến ngày 8 tháng 5, 1947.[1][14]

1947 - 1956

sửa

Porpoise được huy động để phục vụ ngoài biên chế trong vai trò tàu huấn luyện dự bị cho Quân khu Hải quân 8 tại khu vực Houston, Texas trong suốt chín năm tiếp theo.[1] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 13 tháng 8, 1956,[1][14][15] và con tàu bị bán cho hãng Southern Scrap Material Co., Ltd. tại New Orleans để tháo dỡ vào ngày 14 tháng 5, 1957.[1][14][15]

Phần thưởng

sửa

Porpoise được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][14] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.741 tấn.[10]

 
   
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 5 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m Naval Historical Center. Porpoise V (SS-172). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d Bauer & Roberts 1991, tr. 268-269
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m Friedman 1995, tr. 305-311
  5. ^ a b c Lenton 1973, tr. 39
  6. ^ a b c d Alden 1979, tr. 210
  7. ^ Friedman 1995, tr. 261-263
  8. ^ Alden 1979, tr. 211
  9. ^ a b c d Alden 1979, tr. 58
  10. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 310
  12. ^ Silverstone 1965, tr. 190
  13. ^ Gardiner & Chesneau 1980, tr. 143
  14. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. “Porpoise (SS-172)”. NavSource.org. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
  15. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “Porpoise (SS-172)”. uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.

Thư mục

sửa

Liên kết ngoài

sửa