U-98 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-98 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được chín chuyến tuần tra, đánh chìm được mười tàu buôn có tổng tải trọng 48.878 GRT và một tàu chiến phụ trợ tải trọng 10.549 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-98 bị tàu khu trục Anh HMS Wrestler đánh chìm về phía Tây eo biển Gibraltar vào ngày 15 tháng 11, 1942.[1]

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-98
Đặt hàng 30 tháng 5, 1938
Xưởng đóng tàu Friedrich Krupp Germaniawerft, Kiel
Kinh phí 4.439.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 603
Đặt lườn 27 tháng 9, 1939
Hạ thủy 31 tháng 8, 1940
Nhập biên chế 12 tháng 10, 1940
Tình trạng Bị tàu khu trục Anh HMS Wrestler đánh chìm tại Đại Tây Dương, 15 tháng 11, 1942[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 30 006
Chỉ huy:
  • Đại úy Robert Gysae
  • 12 tháng 10, 1940 – 23 tháng 3, 1942
  • Đại úy Wilhelm Schulze
  • 24 tháng 3 – tháng 10, 1942
  • Trung úy Kurt Eichmann
  • tháng 10 – 15 tháng 11, 1942
Chiến dịch:
  • 9 chuyến tuần tra:
  • 1: 12 tháng 3 – 14 tháng 4, 1941
  • 2: 1 – 29 tháng 5, 1941
  • 3: 23 tháng 6 – 23 tháng 7, 1941
  • 4: 31 tháng 8 – 26 tháng 9, 1941
  • 5: 29 tháng 10 – 29 tháng 11, 1941
  • 6: 18 tháng 1 – 27 tháng 2, 1942
  • 7: 31 tháng 3 – 6 tháng 6, 1942
  • 8: 14 tháng 7 – 16 tháng 9, 1942
  • 9: 22 tháng 10 – 15 tháng 11, 1942
Chiến thắng:
  • 10 tàu buôn bị đánh chìm
    (48.878 GRT)
  • 1 tàu chiến phụ trợ bị đánh chìm
    (10.549 GRT)
  • 1 tàu chiến bị hư hại
    (185 tấn)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa
 
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

sửa

U-98 được đặt hàng vào ngày 30 tháng 5, 1938,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 27 tháng 9, 1939.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 8, 1940,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 12 tháng 10, 1940[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Robert Gysae.[2]

Lịch sử hoạt động

sửa

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

U-98 xuất phát từ Kiel vào ngày 12 tháng 3, 1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[4] Nó tiến vào Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo ShetlandFaroe để vòng qua quần đảo Anh và đi đến khu vực tuần tra trong Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Iceland.[6] Vào ngày 27 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Koranton 6.695 GRT, vốn bị tách khỏi Đoàn tàu SC 25, ở vị trí về phía Tây Nam Reykjavík tại tọa độ 58°51′B 22°36′T / 58,85°B 22,6°T / 58.850; -22.600.[7] Đến ngày 4 tháng 4 U-98 tham gia cùng một bầy sói để tấn công Đoàn tàu SC 26,[8] đánh chìm các tàu buôn Na Uy Helle2.467 GRT tại tọa độ 59°06′B 24°12′T / 59,1°B 24,2°T / 59.100; -24.200,[9] và tàu buôn Anh Welcombe 5.122 GRT tại tọa độ 59°09′B 23°40′T / 59,15°B 23,667°T / 59.150; -23.667.[10] Năm ngày sau đó 9 tháng 4, nó tiếp tục phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Hà Lan Prins Willem II 1.304 GRT vốn bị tách khỏi Đoàn tàu HX 117, tại tọa độ 59°50′B 24°25′T / 59,833°B 24,417°T / 59.833; -24.417.[11] U-98 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 14 tháng 4.[4]

Chuyến tuần tra thứ hai

sửa

U-98 khởi hành từ Lorient vào ngày 1 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ hai, và hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Nam mũi Farewell Greenland.[12] Tại đây lúc 04 giờ 00 ngày 13 tháng 5, nó phát hiện tàu buôn tuần dương vũ trang HMS Salopian (10.549 tấn) đang hộ tống Đoàn tàu SC 30 ở vị trí khoảng 400 nmi (740 km) về phía Đông Nam mũi Farewell.[13][14]

Hai loạt ngư lôi đầu tiên, mỗi loạt hai quả, do U-98 phóng lúc sau 04 giờ 00 và 06 giờ 19 phút nhắm vào Salopian đều không trúng đích. Hai quả ngư lôi trong loạt thứ ba đánh trúng Salopian phía giữa và mũi tàu, nhưng chiếc tàu buôn tuần dương tiếp tục chống trả bằng hải pháo, buộc U-98 phải lặn xuống. Tuy nhiên Salopian cũng bị hư hại động cơ và ăn-ten vô tuyến. Đến 08 giờ 00 và 08 giờ 50 phút, thêm hai quả ngư lôi đánh trúng phòng động cơ của Salopian; rồi cuối cùng lúc 10 giờ 43 phút, quả ngư lôi thứ chín trúng đích phía giữa tàu đã khiến chiếc tàu buôn tuần dương vỡ làm đôi và đắm chỉ trong vòng hai phút, tại tọa độ 56°43′B 38°57′T / 56,717°B 38,95°T / 56.717; -38.950.[13][14]

Đến ngày 20 tháng 5, chiếc tàu ngầm tấn công tàu buôn Anh Rothermere 5.356 GRT vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu HX-126, và đánh chìm mục tiêu lúc 17 giờ 56 phút ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, tại tọa độ 57°48′B 41°36′T / 57,8°B 41,6°T / 57.800; -41.600.[15] Sang ngày hôm sau, nó tiếp tục phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Marconi 7.402 GRT, vốn bị tách ra khỏi Đoàn tàu OB-322, lúc 05 giờ 45 phút ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, tại tọa độ 58°00′B 41°00′T / 58°B 41°T / 58.000; -41.000.[16] Khi kết thúc chuyến tuần tra, U-98 đi đến cảng St. Nazaire cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 10 tháng 4.[4]

Chuyến tuần tra thứ ba

sửa

Xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 23 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ ba, U-98 hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương.[17] Nó đã tấn công Đoàn tàu OB 341 ở vị trí về phía Tây Bắc quần đảo Azores vào ngày 9 tháng 7, đánh chìm tàu buôn Anh Designer 5.945 GRT lúc 01 giờ 55 phút tại tọa độ 42°59′B 31°40′T / 42,983°B 31,667°T / 42.983; -31.667,[18] và sau đó là tàu buôn Anh Inverness 4.897 GRT lúc 05 giờ 44 phút tại tọa độ 42°46′B 32°45′T / 42,767°B 32,75°T / 42.767; -32.750.[19] Chiếc tàu ngầm quay trở về St. Nazaire vào ngày 23 tháng 7.[4]

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

sửa

U-98 khởi hành từ St. Nazaire vào ngày 31 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ tư, và hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Ireland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[20] Vào ngày 16 tháng 9, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu SC 42 ở vị trí về phía Tây Bắc quần đảo St. Kilda, Scotland, đánh chìm tàu buôn Anh Jedmoor 4.392 GRT tại tọa độ 59°00′B 10°00′T / 59°B 10°T / 59.000; -10.000.[21] U-98 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về St. Nazaire vào ngày 26 tháng 9.[4]

Trong chuyến tuần tra tiếp theo diễn ra từ ngày 29 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11, cùng xuất phát và kết thúc tại St. Nazaire, U-98 hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Bắc quần đảo Azores, nhưng không có kết quả.[22]

Chuyến tuần tra thứ sáu

sửa

U-98 xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 18 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ sáu, băng qua suốt Đại Tây Dương để hoạt động tại vùng biển ngoài khơi CanadaHoa Kỳ.[23] Tại đây vào ngày 15 tháng 2, nó phóng ngư lôi tấn công chiếc tàu buôn Anh Biela 5.298 GRT, vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu ON 62, đánh chìm mục tiêu ở vị trí 400 nmi (740 km) về phía Đông Nam mũi Race, Newfoundland, tại tọa độ 41°15′B 47°18′T / 41,25°B 47,3°T / 41.250; -47.300; toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn và năm pháo thủ đều thiệt mạng.[24] U-98 quay trở về St. Nazaire vào ngày 27 tháng 2.[4]

Chuyến tuần tra thứ bảy

sửa

Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Thiếu tá Hải quân Wilhelm Schulze,[2] U-98 khởi hành từ căn cứ St. Nazaire vào ngày 31 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ bảy.[4] Chiếc tàu ngầm vẫn còn đang di chuyển trong vịnh Biscay lúc 00 giờ 47 phút ngày 2 tháng 4 khi nó bị một máy bay ném bom Armstrong Whitworth Whitley thuộc Liên đội 502 Không quân Hoàng gia Anh tấn công với sáu quả mìn sâu 250 lb (110 kg) được ném xuống; U-98 lặn khẩn cấp để né tránh và chỉ bị hư hại nhẹ.[2] Nó băng qua suốt Đại Tây Dương để đi đến khu vực tuần tra được chỉ định dọc bờ biển Florida, Hoa Kỳ, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào, nên quay trở về căn cứ St. Nazaire vào ngày 6 tháng 6.[25]

Chuyến tuần tra thứ tám

sửa

Xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 14 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ tám, U-98 vượt Đại Tây Dương để quay trở lại khu vực ngoài khơi Florida, nơi nó rải một bãi 12 quả thủy lôi TMB vào ngày 9 tháng 8.[26] Tàu quét mìn Hoa Kỳ Bold (AMc-67) (185 tấn) đã bị hư hại vào ngày hôm sau 10 tháng 8 khi lọt vào bãi mìn này.[27] U-98 quay trở về căn cứ St. Nazaire vào ngày 16 tháng 9.[4]

Chuyến tuần tra thứ chín - Bị mất

sửa

U-98 khởi hành từ căn cứ St Nazaire, Pháp vào ngày 22 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực giữa Đại Tây Dương.[4][2] Vào ngày 15 tháng 11, nó bị tàu khu trục Anh HMS Wrestler phát hiện và tấn công bằng mìn sâu ở vị trí về phía Tây eo biển Gibraltar.[2][1] U-98 đắm tại tọa độ 36°09′B 7°42′T / 36,15°B 7,7°T / 36.150; -7.700;[1] toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận.[2]

"Bầy sói" tham gia

sửa

U-98 từng tham gia sáu bầy sói:

  • West (8 – 27 tháng 5, 1941)
  • Seewolf (3 – 15 tháng 9, 1941)
  • Störtebecker (5 – 19 tháng 11, 1941)
  • Gödecke (19 – 22 tháng 11, 1941)
  • Natter (30 tháng 10 – 8 tháng 11, 1942)
  • Westwall (8 – 15 tháng 11, 1942)

Tóm tắt chiến công

sửa

U-98 đã đánh chìm được mười tàu buôn có tổng tải trọng 48.878 GRT và một tàu chiến phụ trợ tải trọng 10.549 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[28]
27 tháng 3, 1941 Koranton   United Kingdom 6.695 Bị đánh chìm
4 tháng 4, 1941 Helle   Norway 2.467 Bị đánh chìm
4 tháng 4, 1941 Welcombe   United Kingdom 5.122 Bị đánh chìm
9 tháng 4, 1941 Prins Wellen II   Netherlands 1.304 Bị đánh chìm
13 tháng 5, 1941 HMS Salopian   Hải quân Hoàng gia Anh 10.549 Bị đánh chìm
20 tháng 5, 1941 Rothermere   United Kingdom 5.356 Bị đánh chìm
21 tháng 5, 1941 Marconi   United Kingdom 7.402 Bị đánh chìm
9 tháng 7, 1941 Designer   United Kingdom 5.945 Bị đánh chìm
9 tháng 7, 1941 Inverness   United Kingdom 4.897 Bị đánh chìm
16 tháng 9, 1941 Jedmoor   United Kingdom 4.392 Bị đánh chìm
15 tháng 2, 1942 Biela   United Kingdom 5.298 Bị đánh chìm
10 tháng 8, 1942 USS Bold   Hải quân Hoa Kỳ 185 Bị hư hại

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d Kemp (1997), tr. 96.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-98”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-98”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (first patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Koranton - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “SC-26”. Convoy Battles - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Helle - Norwegian Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Welcombe - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Prins Willem II - Dutch Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (second patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  13. ^ a b Helgason, Guðmundur. “HMS Salopian (F 94) - British Armed merchant cruiser”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  14. ^ a b Morgan & Taylor (2011), tr. 96-100.
  15. ^ Helgason, Guðmundur. “Rothermere - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  16. ^ Helgason, Guðmundur. “Marconi - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  17. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (third patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  18. ^ Helgason, Guðmundur. “Designer - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  19. ^ Helgason, Guðmundur. “Inverness - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  20. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (fourth patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  21. ^ Helgason, Guðmundur. “Jedmoor - British Motor merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  22. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (fifth patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  23. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (sixth patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  24. ^ Helgason, Guðmundur. “Biela - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  25. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (seventh patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  26. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-98 (eighth patrol)”. U-boats Patrols - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  27. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Bold (AMc 67) - American Coastal minesweeper”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2024.
  28. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-98”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

sửa

Liên kết ngoài

sửa
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-98”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 98”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2024.