South Pacific
Bìa tờ chương trình biểu diễn cho lần sản xuất đầu tiên: Martin và Pinza
Âm nhạcRichard Rodgers
LờiOscar Hammerstein II
Kịch bảnOscar Hammerstein II
Joshua Logan
Chuyển thể từTales of the South Pacific
của James A. Michener
Sản xuất1949 Sân khấu Broadway
1950 Lưu diễn Mỹ
1951 Rạp West End
1988 Diễn lại ở West End
2001 Diễn lại ở West End
2007 Lưu diễn Anh
2008 Diễn lại trên Broadway
2009 Lưu diễn Mỹ
Giải thưởngGiải Pulitzer cho kịch
Giải Tony cho nhạc kịch hay nhấtl
Giải Tony cho bản nhạc gốc hay nhất
Giải Tony cho tác giả hay nhất
Giải Tony cho kịch diễn lại hay nhất

South Pacific (tạm dịch: Nam Thái Bình Dương[1]) là một vở nhạc kịch do Richard Rodgers sáng tác, Oscar Hammerstein II viết lời, kịch bản của Hammerstein và Joshua Logan. Ra mắt khán giả năm 1949 tại Broadway, ngay lập tức South Pacific trở thành một sự kiện, được biểu diễn 1.925 lần. Câu chuyện phỏng theo tác phẩm Tales of the South Pacific (Những câu chuyện từ Nam Thái Bình Dương) đoạt giải Pulitzer năm 1947 của James A. Michener, gộp lại nội dung từ vài câu chuyện. Rodgers và Hammerstein tin rằng họ có thể tạo ra một vở nhạc kịch thành công về mặt thương mại và đồng thời gởi đến một thông điệp cấp tiến về phân biệt chủng tộc.

Câu chuyện kể về một cô y tá người Mỹ ở một trạm trên một đảo ở Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai phải lòng một ông chủ đồn điền người Pháp ở tuổi trung niên nhưng không biết làm cách nào để chấp nhận được những đứa con lai của ông. Song song đó là mối tình giữa một chàng đại úy hải quân người Mỹ và một cô gái Bắc Kỳ (người chân đăng). Vở nhạc kịch khai thác nỗi sợ hãi của anh đối với các hệ quả xã hội nếu anh quyết định cưới cô người yêu gốc Á này. Vấn đề thành kiến về chủng tộc được nhắc đến nhiều lần trong vở kịch, đặc biệt là trong bài hát "You've Got to Be Carefully Taught" của đại úy. Các nhân vật phụ, trong đó có một vai sĩ quan hài và bà mẹ của cô gái Bắc Kỳ, giúp kết nối các câu chuyện với nhau thành một mạch hoàn chỉnh. Do thiếu kiến thức quân sự nên Hammerstein gặp khó khăn trong việc viết lời thoại; Logan (đạo diễn của đợt sản xuất đầu tiên) hỗ trợ Hammerstein và được ghi danh là người đồng biên kịch.

Lần sản xuất trên Broadway đầu tiên là một thành công phòng vé đồng thời nhận được hưởng ứng nồng nhiệt từ khán giả lẫn giới phê bình, trở thành vở nhạc kịch được biểu diễn lâu thứ nhì trên Broadway tính đến thời điểm đó (chỉ thua Oklahoma! trước đó cũng do Rodgers và Hammerstein sáng tác), đến nay vẫn được nhiều người yêu thích. Sau khi Ezio Pinza cũng như Mary Martin nhận lời đóng vai chính, Rodgers và Hammerstein đã sáng tác thêm vài bài hát dành riêng cho hai diễn viên này. South Pacific thắng giải Pulitzer dành cho thể loại Chính kịch của năm 1950. Đặc biệt tại miền nam Hoa Kỳ, chủ đề sắc tộc của tác phẩm đã khơi dậy nhiều tranh cãi. Nhiều bài hát của vở kịch như "Bali Ha'i", "I'm Gonna Wash That Man Right Outa My Hair", "There Is Nothing Like a Dame", "Some Enchanted Evening", "Happy Talk", "Younger Than Springtime", "I'm in Love with a Wonderful Guy" đều trở thành chuẩn mực phổ biến.

Đợt sản xuất này nhận mười giải Tony, trong đó có Nhạc kịch hay nhất, Nhạc hay nhất, Kịch bản xuất sắc nhất, đồng thời cũng là vở nhạc kịch duy nhất nhận cả bốn giải diễn xuất. Album nhạc do các diễn viên hát trở thành đĩa hát bán chạy nhất trong thập niên 1940, và các đĩa khác liên quan đến vở nhạc kịch cũng thịnh hành. Sau đó, vở nhạc kịch cũng có nhiều đợt sản xuất lại và tour diễn thành công, cũng như bộ phim chuyển thể điện ảnh năm 1958 cùng vài phim truyền hình chuyển thể khác. Đợt diễn Broadway năm 2008 là một thành công lớn, sở hữu 996 buổi diễn và còn thắng bảy giải Tony, đặc biệt là hạng mục "Nhạc kịch làm lại hay nhất".

Bối cảnh

sửa

Mặc dù giáo sư kiêm chủ bút James Michener không cần phải đi lính trong Chiến tranh thế giới thứ hai vì ông sinh ra trong giáo hữu Quaker (vốn chống các hoạt động quân dịch), ông đã gia nhập vào Hải quân Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1942. Mãi đến tháng 4 năm 1944 ông mới được đưa đến mặt trận Nam Thái Bình Dương, khi ông giao nhiệm vụ viết một bài về lịch sử của Hải quân tại Thái Bình Dương và được cho phép đi lại rộng rãi. Ông thoát chết trong một vụ tai nạn máy bay ở Nouvelle-Calédonie; trải nghiệm này đã làm động cơ thúc đẩy ông viết tiểu thuyết, và ông bắt đầu lắng nghe đến các câu chuyện mà các người lính kể. Một chuyến đi đã đưa ông đến Quần đảo Treasury, nơi mà ông tìm thấy một ngôi làng với "dân làng gầy gò và một con lợn" tên là Bali-ha'i.[2] Ấn tượng với tên này, ông viết nó xuống và ít lâu sau bắt đầu ghi lại những câu chuyện bằng máy đánh chữ cũ kỹ.[3] Tại một đồn điền trên đảo Espiritu Santo, ông gặp một phụ nữ có biệt danh là Bloody Mary (Mary Đẫm máu); bà này có thân hình nhỏ, rụng gần hết răng, và mặt bà dính đầy bã trầu đỏ. Học được những câu nói thô tục từ lính, bà luôn than phiền với Michener về chính quyền thuộc địa Pháp, vì họ không cho bà và những người chân đăng Bắc Kỳ khác về lại Việt Nam với lý do các đồn điền sẽ không còn người trông nom. Bà cho ông biết những kế hoạch chống thực dân của mình khi về lại Đông Dương.[n 1] Những câu chuyện này, gộp lại thành Tales of the South Pacific (Những câu chuyện từ Nam Thái Bình Dương), đã đem lại cho ông Giai Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1948.[3]

Có tổng cộng 19 câu chuyện trong Tales of the South Pacific. Những câu chuyện đứng độc lập nhưng xoay quanh sự chuẩn bị cho một chiến dịch của quân Mỹ nhằm đuổi quân Nhật ra khỏi một đảo gần đó. Chiến dịch này được gọi là Alligator, và diễn ra trong câu chuyện kề cuối "The Landing at Kuralei" ("Cuộc đổ bộ tại Kuralei"). Nhiều nhân vật tử trận trong trận đánh này - câu chuyện cuối cùng có tên là "The Cemetery at Huga Point" ("Nghĩa trang tại Huga Point"). Những câu chuyện được liên kết theo cặp theo chủ đề: câu chuyện đầu tiên và cuối cùng ngẫm lại những chuyện đã xảy ra, câu chuyện thứ nhì và thứ 18 đều nói về trận chiến, câu chuyện thứ ba và thứ 17 nói về việc chuẩn bị trận đánh, v.v. Riêng câu chuyện thứ 10 ở giữa thì không được liên kết với câu chuyện nào khác. Câu chuyện này tên là "Fo' Dolla", là một trong bốn tác phẩm mà sau này Michener đánh giá cao. Câu chuyện này đã thu hút sự chú ý của Rodgers and Hammerstein vì khả năng được chuyển thể đến sân khấu.[4]

"Fo' Dolla' ", một phần lấy bối cảnh trên đảo Bali-ha'i, kể về mối tình giữa một cô gái Bắc Kỳ tên Liat và một người Mỹ, chàng Đại úy Hải quân Joe Cable, tốt nghiệp Đại học Princeton, con của một gia đình giàu có ở Philadelphia. Sau khi mẹ của Liat là Bloody Mary ép anh cưới cô, Cable đã từ chối vì anh tin rằng gia đình và tầng lớp thượng lưu ở Philadelphia. Anh đi tham gia trận đánh (và tử trận) và Bloody Mary tiếp tục với kế hoạch khác là cho Liat cưới một ông chủ đồn điền người Pháp giàu có trên đảo. Trong câu chuyện, Cable đã phải đối đầu với sự phân biệt chủng tộc của chính mình: ông có thể vượt qua nó để yêu Liat, nhưng không đủ để đưa cô về nhà.[5]

Một nguồn khác của nhạc kịch là câu chuyện thứ tám "Our Heroine" ("Anh thư của chúng ta"), đã được liên cặp theo chủ đề với câu chuyện thứ 12, "A Boar's Tooth" ("Một răng lợn"), cả hai nói về người Mỹ tiếp xúc với văn hóa bản địa. "Our Heroine" kể về mối tình giữa cô y tá hải quân Nellie Forbush, từ vùng nông thôn Arkansas, và một ông chủ đồn điền giàu có và tinh vi người Pháp tên là Emile De Becque.[n 2] Sau khi yêu Emile, Nellie (được giới thiệu ngắn gọn trong câu chuyện thứ tư, "An Officer and a Gentleman") mới khám phá ra rằng Emile đã có tám người con gái, sinh ra ngoài giá thú với một số phụ nữ bản địa. Michener cho độc giả biết rằng đối với Nellie, "bất cứ ai... không phải là da trắng hay da vàng là nigger (mọi da đen)", và tuy cô chấp nhận hai đứa con lai Pháp-Á đang sống trong nhà Emile, cô rất nhạc nhiên đối với hai đứa còn lại, vì đây chính là bằng chứng ông đã sống chung với một phụ nữ Polynesia da ngăm đen. Cô hết lo âu khi biết được rằng phụ nữ này đã hết, nhưng cô đã làm nguy hại đến mối quan hệ với Emile khi cô không thể chấp nhận được rằng Emile "đã có con nigger."[6] Cuối cùng Nellie đã vượt qua những cảm tưởng của mình và trở lại để kết hôn với Emile.[7]

Nhiều yếu tố của South Pacific cũng có nguồn gốc trong 19 câu chuyện của Michener. Một câu chuyện giới thiệu nhân vật Bloody Mary; một câu chuyện khác kể về một điệp viên người Anh đang trốn trong đảo đang bị Nhật chiếm đóng và đã đưa tin tức về các hoạt động của quân Nhật cho quân Đồng Minh qua radio. Michener phỏng nhân vật này theo Đại úy Martin Clemens, một người Scotland; khác với nhân vật hư cấu, ông đã sống sót sau cuộc chiến. Các câu chuyện cũng kể về sự chờ đợi tưởng như không ngừng trước các trận đánh, và các nỗ lực của lính Mỹ để tìm thú tiêu khiển; đây là nguồn cảm hứng cho bài hát "There Is Nothing Like a Dame".[8] Một số câu chuyện khác liên quan đến Seabee Luther Billis, trong nhạc kịch đóng vai trò hài hước và cũng cột lại những tình tiết diễn ra giữa những nhân vật không liên quan nhau.[9]

Quá trình sáng tác

sửa

Sau thành công vang dội với các vở kịch Oklahoma! (1943) và Carousel (1945), nhà soạn nhạc Richard Rodgers và người viết lời đang tìm một tác phẩm mới để chuyển thể trên sân khấu Broadway. Sau khi đạo diễn Joshua LoganLeland Hayward, chỉ Rodgers and Hammerstein đến tác phẩm của Michener, hai người đồng ý làm một dự án.[10] Michener đồng ý nhượng bản quyền của tác phẩm để lấy 1% doanh thu từ nhạc kịch.

Nội dung

sửa

Màn I

sửa
 
Billis (Myron McCormick) và Bloody Mary (Juanita Hall) trả giá váy cỏ với đảo Bali Ha'i ở phía sau

Trên một đảo ở Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hai đứa trẻ lai Polynesia[n 3] có tên là Ngana và Jerome, đang vui vẻ chơi chung (bài hát "Dites-Moi"). Thiếu úy Nellie Forbush, một cô y tá ngây thơ trong Hải quân Hoa Kỳ đến từ Little Rock, Arkansas, đã yêu Emile de Becque, một ông chủ đồn điền trung niên người Pháp, mặc dù cô chỉ mới biết ông. Mặc dù mọi người khác đều lo lắng về kết quả cuộc chiến, Nellie cho Emile biết rằng cô tin rằng mọi việc sẽ có kết thúc tốt đẹp ("A Cockeyed Optimist"). Emile cũng yêu Nellie, và mỗi người tự hỏi người kia có đáp lại mối tình của mình không ("Twin Soliloquies"). Emile tỏ tình với Nellie, kể lại việc họ gặp nhau tại cuộc liên hoan khiêu vũ tại câu lạc bộ sĩ quan và khi họ đã yêu nhau ngay trong những giây phút đầu tiên ("Some Enchanted Evening"). Nellie hứa hẹn sẽ ngẫm nghĩ về mối quan hệ này, trở về bệnh viện. Emile gọi Ngana và Jerome đến với ông, cho khán giả thấy rằng chúng là con ông, trong lúc Nellie vẫn chưa biết điều này.

Trong khi đó, các người lính thủy xây dựng dưới sự chỉ huy của Luther Billis, đang buồn chán vì thiếu việc để làm, và họ phàn nàn vì thiếu phụ nữ mà họ có thể tiếp xúc được – Các y tá Hải quân là sĩ quan cho nên lính không thể động đến được. Chỉ có một phụ nữ thường dân trên đảo, có biệt danh là "Bloody Mary" ("Mary Đẫm máu"), một người bán hàng (váy làm bằng cỏ) xấc xược ở tuổi trung niên người Bắc Kỳ; bà nói chuyện với những người lính bằng giọng mỉa mai, tán tỉnh trong lúc chào hàng ("Bloody Mary"). Billis muốn đến đảo Bali Ha'i ở gần đó – chỉ có sĩ quan mới được đến – để chứng kiến Nghi lễ Răng Lợn (để lấy một món vật bản xứ); các người lính khác trêu chọc anh, nói rằng anh thật sự muốn đến đó để coi những cô gái người Pháp trẻ đẹp ở đó. Billis và các người lính tiếp tục than phiền vì thiếu phụ nữ ("There Is Nothing Like a Dame").

 
Juanita Hall trong vai Bloody Mary trong lần sản xuất đầu tiên

Đại úy Hải quân Cable đến đảo từ Guadalcanal để làm nhiệm vụ tình báo có thể làm thay đổi tình hình chiến tranh với Nhật Bản. Bloody Mary tìm cách mời Cable đến đảo "Bali Ha'i", nói một cách bí ẩn rầng đó là đảo đặc biệt của riêng anh. Billis nắm bắt cơ hội và kêu gọi Cable đi. Cable gặp mặt cấp trên của anh là hạm trưởng George Brackett và Commander William Harbison, họ có kế hoạch yêu cầu Emile giúp trong nhiệm vụ vì ông đã từng sống trên đảo đó. Họ yêu cầu Nellie giúp họ tìm hiểu thêm về nguồn gốc của Emile, ví dụ về quan điểm chính trị và vì sao ông đã rời bỏ Pháp. Ví dụ, họ đã nghe rằng Emile đã giết người, và việc đó có thể làm ông ít đáng tin tưởng hơn cho nhiệm vụ này.

Sau khi suy nghĩ về Emile và kết luận rằng mình đã yêu khi chưa biết nhiều về Emile, Nellie nói với các y tá khác rằng cô sẽ từ chối ông ("I'm Gonna Wash That Man Right Outa My Hair"). Khi ông bất ngờ đến và mời Nellie đến một buổi tiệc để giới thiệu cô đến bạn bè của ông, cô nhận lời. Emile tỏ tình với Nellie và cầu hôn cô. Khi cô nhắc đến chính trị, ông nói về các quyền tự do phổ thông, và miêu tả việc phải rời bỏ Pháp sau khi vô tình đánh chết một kẻ bắt nạt mình. Sau khi ông rời khỏi, Nellie hát về nỗi lòng mình ("I'm in Love with a Wonderful Guy").

 
Emile (Pinza) phân vân có đi với Cable (William Tabbert) hay không

Nhiệm vụ của Cable là đổ bộ trong một hòn đảo do Nhật chiếm giữ và báo cáo về hoạt động của các tàu Nhật. Hải quân yêu cầu Emile làm người dẫn đường cho Cable, nhưng ông từ chối vì ông muốn có một cuộc sống mới với Nellie. Commander Harbison, người chỉ huy, cho Cable nghỉ phép cho đến khi nhiệm vụ được diễn ra, và Billis lấy tàu chở Cable đi Bali Ha'i. Tại đó, Billis tham gia một cuộc nghi lễ của người bản xứ, và Bloody Mary giới thiệu Cable đến cô con gái của bà tên Liat, và hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp bập bẹ. Bà Mary để Liat lại một mình với Cable vì bà tin rằng cơ hội tốt nhất trong đời cho con mình là cưới một sĩ quan Mỹ. Hai người ngay lập tức yêu nhau và làm tình ("Younger Than Springtime"). Billis và những người khác sẵn sàng rời khỏi đảo, nhưng họ phải đợi Cable, lúc đó đang ở với Liat ("Bali Ha'i" (lặp lại)). Bloody Mary hãnh diện cho Billis biết rằng Cable sẽ là con rể của bà.

Trong lúc đó, trong cuộc tiệc của Emile, Nellie và ông tưởng nhớ lại niềm vui của họ khi đang yêu (lặp lại các bài "I'm in Love with a Wonderful Guy", "Twin Soliloquies", "Cockeyed Optimist" và "I'm Gonna Wash That Man Right Outa My Hair"). Emile giới thiệu Nellie đến Jerome and Ngana. Mặc dù cô thấy chúng dễ thương, cô bị cú sốc khi Emile cho cô biết rằng chúng là con của ông với người vợ đầu tiên, một người Polynesia da ngăm đen nay đã quá cố. Nellie không thể vượt qua những thành kiến về chủng tộc của mình và rời bỏ Emile ("Some Enchanted Evening" (hát lại)).

Màn II

sửa
 
Nhảy múa "Thanksgiving Follies", trong lần sản xuất đầu tiên.

Vào ngày Lễ Tạ ơn, các lính và y tá tham gia một cuộc dạ vũ mang tên "Thanksgiving Follies". Trong tuần trước đó, một cơn dịch sốt rét đã đến đảo Bali Ha'i. Vì đã đến Bali Ha'i nhiều lần để gặp gỡ với Liat, Cable cũng đã phát bệnh, nhưng cũng đã rời bệnh viện để tìm đến với Liat. Biết được Liat và Cable quấn quýt bên nhau, Bloody Mary cảm thấy rất vui mừng. Bà khuyến khích họ tiếp tục sống trong vô tư trên đảo ("Happy Talk") và kêu gọi họ kết hôn. Cable nhớ đến các thành kiến của gia đình mình, cho biết anh không thể kết hôn một cô gái Bắc Kỳ. Tức giận, Bloody Mary đưa cô con gái đi, và nói với Cable rằng cô sẽ phải cưới một người chủ đồn điền già hơn nhiều. Cable than khóc cho sự mất mát của mình. ("Younger Than Springtime" (Reprise)).

Phòng vé và giải thưởng

sửa

South Pacific opened on Broadway with $400,000 in advance sales. People were so eager to obtain tickets that the press wrote about the lengths people had gone to in getting them. Because "house seats" were being sold by scalpers for $200 or more, the attorney general's office threatened to close the show. The parties who provided the scalpers with the tickets were never identified, and the show ran without interference. The production had a $50,600 weekly gross, and ran for 1,925 performances. The national tour began in 1950 and grossed $3,000,000 in the first year, making $1,500,000 in profit. The original cast album, priced at $4.85, sold more than a million copies.[11]

The original production of South Pacific won ten Tony Awards, including Best Musical, Best Male Performer (Pinza), Best Female Performer (Martin), Best Supporting Male Performer (McCormick), Best Supporting Female Performer (Hall), Best Director (Logan), Best Book and Best Score.[12] As of 2016, it is the only show to win Tonys in all four acting categories.[13] In 1950, the musical won the Pulitzer Prize for Drama, the second musical to do so after Of Thee I Sing, which won in 1932.[14] Rodgers became the first composer of musical comedy to win the Pulitzer, as composer George Gershwin had not been recognized for Of Thee I Sing.[15] The Pulitzer Prize was initially given only to Rodgers and Hammerstein; Logan was later recognized in an amended announcement, much to his annoyance.[16]

The 2001 London revival garnered a Laurence Olivier Award for Philip Quast (Emile).[17] The 2008 revival won seven Tony Awards, including Best Revival (Sher and Szot also won, and the show won in all four design categories),[1] and five Drama Desk Awards, including Outstanding Musical Revival. The late Robert Russell Bennett was also honored that season for "his historic contribution to American musical theatre in the field of orchestrations, as represented on Broadway this season by Rodgers and Hammerstein's South Pacific."[18][19] As of 2016, this was the musical revival with the most Tony Awards.[20] The 2011 London production received three Olivier Award nominations, including Best Musical Revival, but won none.[21][22]

Ghi chú

sửa
  1. ^ Sau này Michener hồi tưởng, "Tôi thường nghĩ đến bà... khi lính Mỹ đang đánh những trận đánh vô ích ở Việt Nam, và tôi tự hỏi rằng các nhà lãnh đạo của chúng ta có biết rằng họ đang chống lại hàng triệu người kiên quyết như Bloody Mary." Xem May, tr. 20
  2. ^ Trong nhạc kịch, chứ "De" đã đổi thành chữ viết thường. Xem Maslon, tr. 115.
  3. ^ Mặc dù trong kịch bản của Hammerstein hai đứa trẻ này là người lai Polynesia, trong một số cuộc diễn, trong đó có lần diễn lại trên Broadway năm 2008, hai đứa trẻ này lại là người lai da đen. Việc này thích hợp với tiểu thuyết của Michener, vốn diễn ra trên Tân Hebrides (Vanuatu). Vì là một phần của Melanesia, người dân bản địa có da đen, và Michener nhiều lần gọi người bản địa của đảo này là "người da đen".

Tham khảo

sửa
  1. ^ a b Tố Uyên (theo Xinhua) (16 tháng 6 năm 2008). “Vở nhạc kịch "Nam Thái Bình Dương" thắng lớn tại liên hoan kịch quốc tế Tony Awards lần thứ 62”. Báo Bình Định Online. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2021.
  2. ^ Lovensheimer, tr. 35–39
  3. ^ a b Lovensheimer, tr. 39
  4. ^ Lovensheimer, pp. 39, 191
  5. ^ Lovensheimer, tr. 39–40
  6. ^ Michener 1967, tr. 126–127
  7. ^ Lovensheimer, tr. 43–44, 191
  8. ^ Lovensheimer, tr. 49–50; và May, tr. 24–25
  9. ^ Lovensheimer, tr. 52–53
  10. ^ Fordin, tr. 259–260; và Logan, tr. 266–267
  11. ^ Nolan, p. 195
  12. ^ Winners 1950, Tony Awards official website, accessed May 23, 2019
  13. ^ Haun, Harry. "Quiz: Oscar Has Tony Ties, Challenge Your Awards Knowledge!", Playbill, June 15, 2016
  14. ^ “Pulitzered Succeed Is 2d Musical in 3 Seasons to Clean-Sweep Awards”. Variety: 1. 9 tháng 5 năm 1962.
  15. ^ Maslon, p. 153
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Nolan190
  17. ^ "Olivier Winners 2002" Lưu trữ 2013-10-16 tại Wayback Machine , Olivier Awards official website, accessed April 7, 2012
  18. ^ Search page for Tony Awards (search year "2008" and show South Pacific), Tony Awards official website, accessed June 11, 2013
  19. ^ 2007–2008 Drama Desk Awards Winners Honored, Livedesign.com, accessed June 11, 2013.
  20. ^ "Quick Facts", Tony Awards official website, accessed August 5, 2016
  21. ^ Singh, Anita. Olivier Awards: Full list of nominations, The Telegraph, March 15, 2012, accessed June 11, 2013
  22. ^ Singh, Anita. Young stars steal the show as Matilda sets Olivier records, The Telegraph, April 15, 2012, accessed June 11, 2013

Tài liệu

sửa

Liên kết ngoài

sửa