Segawa Shōji ( () (がわ) (しょう) () (Lại Xuyên Tinh Ty)?) sinh ngày 23 tháng 3 năm 1970 tại TP Yokohama, tỉnh Kanagawa[1] là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Lục đẳng người Nhật Bản có số hiệu kỳ thủ 259 và là môn hạ của Yasue Terutaka Bát đẳng. Sau khi phải rời Trường đào tạo kỳ thủ, ông đã vượt qua một bài kiểm tra đặc biệt vào năm 2005 và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp[chú thích 1].

Segawa Shōji Lục đẳng
TênSegawa Shōji (瀬川晶司)
Ngày sinh23 tháng 3, 1970 (54 tuổi)
Ngày lên chuyên6 tháng 11, 2005(2005-11-06) (35 tuổi)
Số hiệu kì thủ259
Quê quánTP Yokohama, Kanagawa
Trực thuộcLiên đoàn Shogi Nhật Bản (Kantō)
Sư phụYasue Terutaka Bát đẳng
Đẳng cấpLục đẳng
Hồ sơhttps://www.shogi.or.jp/player/pro/259.html
Cập nhật đến ngày 17 tháng 10 năm 2024

Ông tốt nghiệp trường cao học Maioka[2] và khoa Luật Đại học Kanagawa[3][4].

Sự nghiệp

sửa

Con đường lên chuyên

sửa

Trong Trường đào tạo kỳ thủ

sửa

Segawa bắt đầu chơi shogi từ năm 5 tiểu học, khi nó trở thành trào lưu trong lớp ông. Sau khi trào lưu đó mất dần, ông vẫn tiếp tục chuyên tâm nghiên cứu shogi và đã viết trong kỷ yếu tiểu học rằng ông muốn trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp về sau. Segawa luyện tập cùng một người bạn về sau trở thành Long Vương và Danh Nhân nghiệp dư là Watanabe Ken'ya. Tuy ông trượt bài kiểm tra gia nhập Trường đào tạo vào năm 1983, sau khi vô địch giải vô địch shogi trung học toàn Nhật Bản năm 1984[chú thích 2], ông chính thức gia nhập trường đào tạo với tư cách môn hạ của Yasue Terutaka Bát đẳng.

Trong Trường đào tạo, ông phải dành đến 1 năm 9 tháng để thoát khỏi xếp hạng Nhất cấp (1-kyu), và chính thức tham gia Tam đẳng League lần đầu khi đã 21 tuổi. Trong 8 kỳ ông tham gia, thành tích tốt nhất của ông là tại kỳ 16 (năm 1994). Tại đó, tuy thể hiện tốt trong nửa đầu giải đấu với thành tích 8 thắng - 1 thua, sau một thất bại trước một Katsumata Kiyokazu sắp phải rời Trường đào tạo, ông rớt hạng liên tục và về đích ở hạng 8 (Katsumata giành hạng 2 và lên chuyên). Cuối cùng, tại kỳ 18 (năm 1995), ông đạt giới hạn tuổi và phải rời Trường đào tạo khi đã 26 tuổi. Thành tích tổng của ông tại Tam đẳng League là 72 thắng - 72 thua (tỷ lệ thắng 50%).

Sau khi rời Trường đào tạo

sửa

Ban đầu, Segawa nhắm tới bài thi luật sư để vượt qua các kỳ thủ rời Trường đào tạo để rồi trở thành luật sư[3]. Do đó, tháng 4 năm 1997, ông nhập học khoa Luật trường Đại học Kanagawa[3]. Tuy nhiên, sau khi đã quen với đời sống đại học, giấc mơ làm luật sư của ông cũng phai dần[3].

Tuy ông đã định đoạn tuyệt với shogi sau khi rời Trường đào tạo và đã bỏ hết các sách shogi cũng như kỳ phổ của mình, Segawa đã tìm lại được niềm vui khi chơi shogi giải trí và trở lại làm kỳ thủ nghiệp dư. Năm 1999, khi đang học năm 3 đại học, ông vô địch Danh Nhân Chiến nghiệp dư kỳ 53, qua đó giành quyền tham gia một giải đấu chuyên nghiệp - Kỳ Vương Chiến kỳ 26. Đối thủ đầu tiên của ông, trùng hợp thay, chính là Chūza Makoto - người đã khiến ông phải rời Trường đào tạo tại Tam đẳng League thứ 18. Cùng năm đó, Segawa về nhì Vương Tướng Chiến nghiệp dư, qua đó giành quyền tham gia Ngân Hà Chiến kỳ 9, nơi ông vượt qua 7 kỳ thủ chuyên nghiệp liên tiếp[chú thích 3] và giành quyền tham gia vòng Chung kết với tư cách kỳ thủ có chuỗi thắng dài nhất[chú thích 4]. Sau đó, ngày 1 tháng 1 năm 2000, ông đấu 1 ván chấp tượng trên kênh truyền hình NHK trước Habu Yoshiharu Cúp NHK và để thua sau 119 nước đi.

Segawa tốt nghiệp đại học năm 2001 và vào làm tại YEC Solutions, một công ty con của NEC[4]. Vì đã hoàn tất khóa học xử lý thông tin tại đại học, ông trở thành kỹ sư hệ thống[4]. Về sau, ông trở thành một quản trị viên hệ thống sơ cấp[5]. Ngoài làm nhân viên văn phòng, ông cũng chơi shogi ở NEC cùng với các kỳ thủ nghiệp dư mạnh khác như Katō Yukio hay Shimizugami Tōru và tham gia các giải đấu đoàn đội cùng họ.

Năm 2002, Segawa trở thành Vương Tướng nghiệp dư và giành quyền tham gia Ngân Hà Chiến một lần nữa, nơi ông giành chuỗi 3 ván thắng[chú thích 5] và một lần nữa tham gia vòng chung kết. Ở vòng 1, ông đẩy kỳ thủ hạng A Kubo Toshiaki Bát đẳng vào thế bị động và giành chiến thắng. Kỳ thủ bình luận ván đấu này là Katsumata Kiyokazu đã vô cùng bất ngờ khi thấy Segawa liên tục tung ra những nước đi cảm giác như không phải của kỳ thủ nghiệp dư. Segawa dừng bước ở tứ kết trước Fujii Takeshi.

Năm 2003, ông trở thành Chuẩn Vương Tướng nghiệp dư và một lần nữa tham gia Ngân Hà Chiến kỳ 13. Với chuỗi 6 ván thắng[chú thích 6], ông tiến vào vòng Chung kết lần thứ 3[chú thích 7]. Trong mùa giải 2004, Segawa lọt vào top 8 Danh Nhân Chiến nghiệp dư và giành quyền tham gia Giải vô địch shogi Asahi mở rộng (một giải đấu chuyên nghiệp)[chú thích 8].

Với các thành tích kể trên, vào thời điểm ông nộp đơn kiến nghị cho Liên đoàn Shogi Nhật Bản (cuối tháng 2 năm 2005), thành tích của Segawa trước các kỳ thủ chuyên nghiệp là 17 thắng - 6 thua, và tỷ lệ thắng 73,9%[chú thích 9] (bao gồm 1 ván được xử thắng). Toàn bộ 17 ván thắng của ông đều đến từ Ngân Hà Chiến - một giải đấu cờ nhanh (thành tích của ông ngoài Ngân Hà Chiến là 0 thắng - 2 thua).

Bài kiểm tra

sửa

Với thành tích như trên, cuối tháng 2 năm 2005, Segawa nộp đơn xin kết nạp kỳ thủ chuyên nghiệp cho Liên đoàn Shogi Nhật Bản. Theo ông, một cường hào nghiệp dư khác là Endō Masaki đã nói rằng "Để mà nói rằng một người có tỷ lệ thắng kỳ thủ chuyên nghiệp cao như vậy không có cơ hội lên chuyên rất buồn cười" và rằng "nếu anh thật sự muốn lên chuyên, tôi sẽ hỗ trợ hết sức mình". Từ đó, Segawa quyết tâm trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Endō cùng Nishijō Kōichi, một phóng viên của Yomiuri Shimbun đã thành lập "Project S" và vận động các kỳ thủ không đồng ý. Vào tháng 5, với 129 phiếu thuận, 52 phiếu chống, và 8 phiếu trắng, đa số kỳ thủ đã chấp nhận cho Segawa làm bài kiểm tra để được kết nạp vào Free Class - bài kiểm tra đầu tiên kể từ năm 1944, khi Hanamura Motoji thành công trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp.

Về bài kiểm tra, Liên đoàn chỉ định 6 kỳ thủ làm giám khảo đấu với Segawa (từ ván 1: Satō Amahiko Tam đẳng, Kanki Hiromitsu Lục đẳng, Kubo Toshiaki Bát đẳng[chú thích 10], Nakai Hiroe Nữ lưu Lục đẳng, Takano Hideyuki Ngũ đẳng, và Nagaoka Yūya Tứ đẳng). Nếu Segawa thắng 3 ván, ông sẽ được kết nạp làm kỳ thủ Free Class (sẽ buộc phải giải nghệ nếu không giành quyền tham gia Thuận Vị Chiến trong vòng 10 năm). Thời gian cho ván 1 là 90 phút mỗi bên (do ván này đấu trực tiếp), các ván còn lại là 3 tiếng mỗi bên.

Tại ván 5 vào ngày 6 tháng 11 năm 2005, khi đã chiến thắng trước Kanki và Nakai, Segawa đánh bại Takano và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Năm 2006, chế độ kết nạp kỳ thủ chuyên nghiệp được thể chế hóa và vào năm 2014, Imaizumi Kenji là kỳ thủ đầu tiên vượt qua bài kiểm tra này.

Sau khi lên chuyên

sửa

Ván đấu đầu tiên của Segawa với tư cách là kỳ thủ chuyên nghiệp là trận đấu tại vòng 1 vòng Xếp hạng tổ 6 Long Vương Chiến vào ngày 12 tháng 12 năm 2005 trước Shimizugami Tōru Nghiệp dư. Ông đã giành chiến thắng trong trận đấu ra mắt của mình.

Ngày 26 tháng 2 năm 2006, ông tham gia Cúp Ricoh Giải vô địch shogi đoàn thể Nhật Bản lần thứ 18 với tư cách là thủ lĩnh của đội NEC. Ông để thua thủ lĩnh đội Đại học Tokyo là Katagami Daisuke Tứ đẳng. Đội của ông thất bại chung cuộc với tỷ số 2-5. Segawa và Katagami là 2 kỳ thủ chuyên nghiệp đầu tiên tham gia giải đấu này. Cuối tháng 3 năm 2006, ông nghỉ việc tại YEC Solutions. Tuy nhiên, vì vẫn còn trong thời hạn hợp đồng với NEC, từ tháng 4 năm 2006, ông là kỳ thủ đầu tiên của Liên đoàn Shogi Nhật Bản làm nhân viên văn phòng (ông thường xuất hiện trong quảng cáo cầm quạt có logo công ty). Sau khi hợp đồng của ông đáo hạn tháng 3 năm 2019, ông tiếp tục tham gia dạy shogi và tổ chức sự kiện tại NEC.

Trong mùa giải 2008, ông vượt qua vòng sơ loại Cúp NHK lần thứ 58 với 3 ván thắng liên tiếp, đánh dấu lần đầu tiên ông tham gia một giải đấu trên truyền hình. Ngày 23 tháng 4 năm 2009, với chiến thắng trước Hashimoto Takanori tại vòng Sơ loại thứ Nhất Vương Tọa Chiến, ông đặt một tay lên quyền tham gia Thuận Vị Chiến. Ngay sau đó, tại vòng Sơ loại thứ Nhất Kỳ Thánh Chiến, với chiến thắng trước Chūza Makoto, ông đạt tỷ lệ thắng 65,7% trong 35 ván gần nhất, qua đó đạt điều kiện tham gia hạng C2 Thuận Vị Chiến 3 năm rưỡi sau khi lên chuyên.

Ngày 13 tháng 8 năm 2012, tại vòng Sơ loại thứ Nhất Kỳ Thánh Chiến kỳ 84, ông giành ván thắng thứ 100 trong sự nghiệp trước Kondō Masakazu và được thăng lên Ngũ đẳng[6]. Tuy nhiên, tại Thuận Vị Chiến kỳ 71, với thành tích 3 thắng - 7 thua, ông phải nhận điểm giáng hạng đầu tiên. Ngày 3 tháng 12 năm 2015, ông giành quyền tham gia vòng Xác định Khiêu chiến giả Vương Vị Chiến kỳ 57 và bị loại với thành tích 5 ván toàn thua.

Ngày 8 tháng 11 năm 2018, tại vòng 6 hạng C2 Thuận Vị Chiến kỳ 77, với chiến thắng trước Minami Yoshikazu, Segawa đạt điều kiện số ván thắng và được thăng lên Lục đẳng[7][8]. Tại Long Vương Chiến kỳ 31, sau khi để thua từ vòng 1 xếp hạng, ông thắng liền 7 ván và được thăng lên tổ 5. Segawa tiếp tục thể hiện tốt tại Long Vương Chiến và thăng lên tổ 4 ngày 10 tháng 11 năm 2021. Trong năm đó, ông cũng tham gia vòng Xác định Khiêu chiến giả Kỳ Vương Chiến lần đầu tiên khi đã 51 tuổi, đánh dấu một năm đầy thành công của ông.

Tuy nhiên, trong 2 năm sau đó, ông đã phải trở về tổ 6 Long Vương Chiến, cũng như nhận điểm giáng hạng thứ 2 tại Thuận Vị Chiến với thành tích 1 thắng - 9 thua tại kỳ 82.

Đời tư

sửa
  • Ông là con trai thứ 3 và trẻ nhất trong nhà.
  • Ông sinh năm 1969, bằng tuổi với những Satō Yasumitsu hay Murayama Satoshi và các kỳ thủ khác thuộc thế hệ Habu.
  • Vì là kỳ thủ đầu tiên được kết nạp, ông đã nhiều lần làm cầu nối giữa các kỳ thủ nghiệp dư và thế giới chuyên nghiệp. Ông đã làm sư phụ của cựu Tam đẳng Akiyama Tarō vào các năm 2007 và 2010 và siêu cường nghiệp dư Takeda Shunpei năm 2008 khi họ làm bài kiểm tra tham gia Tam đẳng League[9][10]. Akiyama hơn Segawa 2 tuổi, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử một kỳ thủ có đệ tử nhiều tuổi hơn bản thân.
  • Ông có nhiều bạn bè trong giới chuyên nghiệp, đặc biệt là Tamura Kōsuke, bạn thân của ông từ khi còn ở Trường đào tạo, và cũng thường xuất hiện trên blog của Segawa.
  • Segawa gặp Imaizumi Kenji, kỳ thủ chuyên nghiệp tiếp theo được kết nạp trên NHK Educational TV lần đầu tiên ngày 2 tháng 1 năm 2016 trong một giải đấu không chính thức mừng năm mới. Với thể thức 10 phút không byoyomi mỗi bên, Imaizumi đã giành chiến thắng.
  • Bộ quân ông sử dụng nhiều nhất để nghiên cứu là bộ quân ông được tặng sau khi rời Trường đào tạo.
  • Khi còn học trung học, tuy ông muốn tham gia câu lạc bộ shogi ở trường, giáo viên đã từ chối vì ông quá mạnh. Do đó Segawa phải chuyển sang CLB cờ vây trong 3 năm trung học.
  • Cuốn tiểu thuyết tự truyện của Segawa mang tên "Kỳ tích của Shottan hay khóc" đã được chuyển thể thành phim bởi WOWOW FILMS[11], và ông đã dạy shogi cho diễn viên chính Matsuda Ryūhei và vai phản diện Nomura Yōjirō[12].
  • Segawa là một fan cứng của Amuro Namie, và đã từng đến Okinawa xem buổi biểu diễn kỷ niệm 25 năm của cô.
  • Ông là đối thủ đầu tiên của Fujii Sōta tại Thuận Vị Chiến (ngày 15 tháng 6 năm 2017, vòng 1 hạng C2 Thuận Vị Chiến kỳ 76[13]). Khi đó Fujii đang trên chuỗi 25 ván thắng liên tiếp từ khi ra mắt, và tuy Segawa rất muốn ngăn cản Fujii, trong một thế tàn cuộc nan giải, Segawa đã không thể tìm ra nước đi tốt nhất, tự phá hủy thế trận của mình, và giúp Fujii có được ván thắng thứ 26 liên tiếp[14]. Sau ván đấu, khi được phỏng vấn và trên blog, ông đã ủng hộ Fujii: "Tới đây, (kỷ lục khi đó là 28 ván thắng của Kamiya Hiroshi) có lẽ chúng ta sắp thấy một kỷ lục mới được thiết lập rồi."
  • Năm 2006, Segawa nhận Giải Văn hóa TP Yokohama với lý do "Tuy đã từ bỏ giấc mơ chuyên nghiệp một lần do tuổi tác, để một lần nữa tới với giấc mơ đó, Segawa đã hành động và vượt qua bài kiểm tra lên chuyên đầu tiên sau Thế chiến, đạt được kỳ vọng của mọi người, và một lần nữa khiến họ quan tâm tới văn hóa shogi. Ông cũng thể hiện rất tốt trong các giải đấu lớn, cũng như tham gia các hoạt động phổ cập shogi."

Khi chép kỳ phổ

sửa
  • Năm 1993, tại ván 2 Vương Vị Chiến kỳ 34 tổ chức tại Alpha Resorts Tomamu, thôn Shimukappu, Hokkaidō, Segawa khi đó là Tam đẳng được chỉ định là người ghi chép kỳ phổ. Tuy nhiên, do đường ray gặp sự cố, ông đã đến muộn giờ gặp mặt ở sân bay Haneda. Vì đây cũng là lần đầu tiên ông đi máy bay, tai họa chồng chất lên tai họa và Segawa đã để quên vali chứa quân cờ thi đấu và giấy chép kỳ phổ tại sân bay (may mắn là có người tìm thấy vali đó và gửi đến ông trên chuyến bay kế tiếp)[15]. Tại ván này, phó trọng tài bị thay đổi ngay trước khi ván bắt đầu (Satō Yoshinori thay bằng Taki Seiichirō do bị gút). Trong ngày thi đấu thứ 2, ngay sau khi ván đấu bắt đầu, khách sạn bị mất điện.
  • Trong các ngày 10-11 tháng 11 năm 2006, tại ván 1 Long Vương Chiến kỳ 19 tổ chức tại San Francisco, Hoa Kỳ, Segawa cũng là người ghi chép kỳ phổ. Trong ngày thi đấu thứ 2, Segawa đã ngủ quên trong giờ nghỉ ăn trưa, dẫn đến việc ván đấu bắt đầu chậm hơn. Trong kỳ Long Vương Chiến này, tất cả nhân sự đều phải thay phiên nhau ngủ bù do jet lag, nhưng do không thể thay đổi người ghi chép giữa ván đấu, Segawa chỉ có thể ngủ trong giờ ăn trưa. Sau giờ nghỉ, Watanabe Akira Long Vương không thực hiện nước đi do không thấy Segawa. Ngay khi trọng tài trưởng Fukaura Kōichi chuẩn bị đồng hồ, Segawa trở lại phòng thi đấu và tiếp tục ván đấu.

Lý lịch

sửa
  • 1984: Gia nhập Trường đào tạo
  • 1992: Tham gia Tam đẳng League
  • 1996: Rời Trường đào tạo do giới hạn tuổi
  • 1999: Danh Nhân nghiệp dư
  • 2002: Vương Tướng nghiệp dư
  • 2004: Chiến thắng kỳ thủ hạng A Kubo Toshiaki tại Ngân Hà Chiến.
  • 2005: Lọt vào top 8 Asahi Danh Nhân Chiến, giành quyền tham gia giải vô địch Asahi mở rộng.
  • 18 tháng 7 - 6 tháng 11 năm 2005: Làm bài kiểm tra lên chuyên.
  • 6 tháng 11 năm 2005: Chiến thắng 3-2 trong bài kiểm tra và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp.
  • 12 tháng 12 năm 2005: Chiến thắng Shimizugami Tōru Nghiệp dư tại tổ 6 Long Vương Chiến và có chiến thắng đầu tiên trong trận ra mắt.
  • 14 tháng 4 năm 2006: Ký hợp đồng 1 năm với NEC.

Lịch sử thăng cấp

sửa
Ngày Đẳng cấp Ghi chú
1984 Lục cấp (6-kyu) Gia nhập Trường đào tạo kỳ thủ
1991 Tam đẳng (3-dan)
31 tháng 3, 1996(1996-03-31) (26 tuổi) Rời Trường đào tạo kỳ thủ
6 tháng 11, 2005(2005-11-06) (35 tuổi) Tứ đẳng (4-dan) Trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp
13 tháng 8, 2012(2012-08-13) (42 tuổi) Ngũ đẳng (5-dan) Thắng 100 ván chính thức
8 tháng 11, 2018(2018-11-08) (48 tuổi) Lục đẳng (6-dan) Thắng 120 ván chính thức sau khi lên Ngũ đẳng

Bài thi lên chuyên

sửa
Ngày Đối thủ (giám khảo) Kết quả Lượt đi (Segawa)
Ván 1 18 tháng 7 năm 2005 Satō Amahiko Tam đẳng Hậu thủ
Ván 2 14 tháng 8 năm 2005 Kanki Hiromitsu Lục đẳng Hậu thủ
Ván 3 17 tháng 9 năm 2005 Kubo Toshiaki Bát đẳng Hậu thủ
Ván 4 10 tháng 10 năm 2005 Nakai Hiroe Nữ lưu Lục đẳng Hậu thủ
Ván 5 6 tháng 11 năm 2005 Takano Hideyuki Ngũ đẳng

(Phó chủ tịch Nakahara Makoto)

Hậu thủ
Ván 6 26 tháng 12 năm 2005 Nagaoka Yūya Tứ đẳng

(Chủ tịch Yonenaga Kunio)

- -

Tại ván 5, Nakahara Makoto là giám khảo, còn Takano Hideyuki là trợ lý và là người đấu với Segawa. Ván 6 cũng sẽ diễn ra tương tự, tuy nhiên vì Segawa đã vượt qua bài kiểm tra ở ván 5, ván 6 đã không diễn ra. Ban đầu, trợ thủ cho ván 5 là Kumasaka Manabu, tuy nhiên do hiểu nhầm, Kumasaka đã từ chối và được thay bằng Takano. Tuy mỗi ván đều diễn ra furigoma, Segawa phải cầm Hậu cả 5 ván.

Thành tích chính

sửa
  • Top 8 Ngân Hà Chiến kỳ 12 (khi còn là nghiệp dư)

Thành tích trước các kỳ thủ chuyên nghiệp khi còn nghiệp dư

sửa
Mùa giải Số ván Thắng Thua
1999 1 0 1
2000 8 7 1
2001 1 0 1
2002 0 0 0
2003 5 3 2
2004 8 7 1
2005 4 0 4
Cộng 27 17 10

Chi tiết

Thăng/giáng hạng/tổổ

sửa
Bảng thăng/giáng hạng/tổ Long Vương chiến/Thuận Vị chiến qua từng năm
Đầu
mùa giải
Thuận Vị chiến Long Vương chiến
Kỳ Danh Nhân Hạng A Hạng B Hạng C Free Class Kỳ Long Vương Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Tổ 4 Tổ 5 Tổ 6
Tổ 1 Tổ 2 Tổ 1 Tổ 2
2005 64 FX 19 Tổ 6
2006 65 FX 20 Tổ 6
2007 66 FX 21 Tổ 6
2008 67 FX 22 Tổ 6
2009 68 FX 23 Tổ 6
2010 69 C238 24 Tổ 6
2011 70 C229 25 Tổ 6
2012 71 C230x 26 Tổ 6
2013 72 C239* 27 Tổ 6
2014 73 C234* 28 Tổ 6
2015 74 C217* 29 Tổ 6
2016 75 C230* 30 Tổ 6
2017 76 C224* 31 Tổ 6
2018 77 C218* 32 Tổ 5
2019 78 C229* 33 Tổ 5
2020 79 C228* 34 Tổ 5
2021 80 C230* 35 Tổ 4
2022 81 C228* 36 Tổ 5
2023 82 C238* 37 Tổ 6
 Chữ đóng khung  tại Thuận Vị chiến và Long Vương chiến biểu thị Khiêu chiến giả.
Số nhỏ tại Thuận Vị chiến là Thuận Vị. (xĐiểm giáng hạng có sẵn / *Điểm giáng hạng phải nhận / +Điểm giáng hạng được xóa)
"F" tại Thuận Vị chiến biểu thị Free Class (FX: Kỳ thủ được xếp vào Free Class / FT: Kỳ thủ tự nguyện chuyển xuống Free Class)
Chữ đậm tại Long Vương chiến biểu thị chiến thắng tổ, số tổ kèm (chữ nhỏ) biểu thị kỳ thủ không chuyên.

Đại Thưởng

sửa
  • Lần thứ 33 (mùa giải 2005): Giải thưởng Hội nhà báo Tokyo

Thành tích trước kỳ thủ chuyên nghiệp thời nghiệp dư

sửa
STT Ngày Đối thủ Lượt đi Kết quả Giải đấu
1 10 tháng 3 năm 2000 Chūza Makoto Tứ đẳng Hậu Kỳ Vương Chiến kỳ 26 - Vòng Sơ loại - Tổ 6 - Vòng 1
2 31 tháng 8 năm 2000 Ikeda Shūichi Lục đẳng - Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 1
3 31 tháng 8 năm 2000 Kubota Yoshiyuki Ngũ đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 2
4 14 tháng 9 năm 2000 Nakao Toshiyuki Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 3
5 14 tháng 9 năm 2000 Fujiwara Naoya Ngũ đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 4
6 12 tháng 10 năm 2000 Toyokawa Takahiro Ngũ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 5
7 12 tháng 10 năm 2000 Kobayashi Hiroshi Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 6
8 31 tháng 10 năm 2000 Matsumoto Yoshiyuki Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 7
9 13 tháng 11 năm 2000 Nozuki Hirotaka Ngũ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng loại - Block A - Vòng 8
10 25 tháng 8 năm 2001 Senzaki Manabu Bát đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 9 - Vòng Chung kết - Vòng 1
11 1 tháng 6 năm 2003 Fujikura Yūki Tứ đẳng Hậu Giải Asahi mở rộng lần thứ 22 - Vòng Sơ loại - Tổ 5 - Vòng 1
12 26 tháng 9 năm 2003 Iino Kenji Thất đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng loại - Block C - Vòng 1
13 26 tháng 9 năm 2003 Ina Yūsuke Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng loại - Block C - Vòng 2
14 14 tháng 11 năm 2003 Hirafuji Shingo Lục đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng loại - Block C - Vòng 3
15 14 tháng 11 năm 2003 Satō Shin'ya Ngũ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng loại - Block C - Vòng 4
16 22 tháng 7 năm 2004 Kubo Toshiaki Bát đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng Chung kết - Vòng 1
17 14 tháng 8 năm 2004 Fujii Takeshi Cửu đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 12 - Vòng Chung kết - Vòng 2
18 2 tháng 10 năm 2004 Katagami Daisuke Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 1
19 2 tháng 10 năm 2004 Itō Nō Ngũ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 2
20 6 tháng 11 năm 2004 Akutsu Chikara Ngũ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 3
21 6 tháng 11 năm 2004 Ōuchi Nobuyuki Cửu đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 4
22 28 tháng 1 năm 2005 Awaji Hitoshige Cửu đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 5
23 28 tháng 1 năm 2005 Iizuka Hiroki Lục đẳng Tiên Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 6
24 2 tháng 4 năm 2005 Yashiki Nobuyuki Cửu đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng loại - Block F - Vòng 7
25 4 tháng 6 năm 2005 Katagami Daisuke Tứ đẳng Tiên Giải Asahi mở rộng lần thứ 24 - Vòng Sơ loại - Tổ 2 - Vòng 1
26 30 tháng 7 năm 2005 Sasaki Makoto Tứ đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 14 - Vòng Sơ loại
27 6 tháng 8 năm 2005 Maruyama Tadahisa Cửu đẳng Hậu Ngân Hà Chiến kỳ 13 - Vòng Chung kết - Vòng 1

Chú thích

sửa
  1. ^ Ông là người thứ 2 sau Hanamura Motoji và là người đầu tiên sau Thế chiến 2 đạt được điều này.
  2. ^ Nơi ông vượt qua Fukaura Kōichi tại bán kết và Matsumoto Yoshiyuki tại chung kết.
  3. ^ Các đối thủ của ông bao gồm Ikeda Shūichi (bị xử thua do đã giải nghệ), Kubota Yoshiyuki, Nakao Toshiyuki, Fujiwara Naoya, Toyokawa Takahiro, Kobayashi Hiroshi, và Matsumoto Yoshiyuki.
  4. ^ Ông thua từ vòng 1 trước Senzaki Manabu.
  5. ^ Trước các đối thủ Iino Kenji, Ina Yūsuke, và Hirafuji Shingo.
  6. ^ Trước các đối thủ Katagami Daisuke, Itō Nō, Akutsu Chikara, Ōuchi Nobuyuki, Awaji Hitoshige, và Iizuka Hiroki.
  7. ^ Ông bị loại từ vòng 1 trước cựu Danh Nhân Maruyama Tadahisa.
  8. ^ Ông bị Katagami Daisuke loại ngay ván đầu tiên.
  9. ^ Thành tích tổng cộng thời nghiệp dư của ông là 17 thắng - 10 thua.
  10. ^ Từng thua Segawa tại Ngân Hà Chiến.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Segawa 2010, Giới thiệu
  2. ^ “染谷将太、3度目の将棋映画「泣き虫しょったんの奇跡」…「聖の青春」と正反対の生意気キャラ : スポーツ報知”. web.archive.org. 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  3. ^ a b c d Segawa 2010, tr. 219-232
  4. ^ a b c Segawa 2010, tr. 259-273
  5. ^ “プロ棋士になっても現役SE!瀬川晶司流ライフ×ワーク|【Tech総研】”. next.rikunabi.com. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  6. ^ “瀬川晶司四段が五段に昇段|将棋ニュース|日本将棋連盟”. www.shogi.or.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  7. ^ “瀬川晶司五段が六段に昇段|将棋ニュース|日本将棋連盟”. www.shogi.or.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  8. ^ “映画にもなった異色棋士・瀬川晶司さんが六段に昇段(松本博文) - エキスパート”. Yahoo!ニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  9. ^ “加來博洋さん、秋山太郎さん奨励会三段リーグ編入試験を受験|将棋ニュース|日本将棋連盟”. www.shogi.or.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  10. ^ “武田俊平さん、奨励会三段リーグ編入試験を受験|将棋ニュース|日本将棋連盟”. www.shogi.or.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  11. ^ “WOWOW FILMS『泣き虫しょったんの奇跡(仮題)』製作のお知らせ:時事ドットコム”. web.archive.org. 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  12. ^ Inc, Natasha. “野田洋次郎、映画「泣き虫しょったんの奇跡」に松田龍平のライバル棋士役で出演(コメントあり)”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  13. ^ “第76期名人戦・順位戦 C級2組”. www.shogi.or.jp. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  14. ^ INC, SANKEI DIGITAL (16 tháng 6 năm 2017). “瀬川五段、藤井四段に積極的仕掛けも「リード守れず」/将棋”. サンスポ (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.
  15. ^ 将棋ペンクラブログ (23 tháng 2 năm 2014). “災難が続いたタイトル戦”. 将棋ペンクラブログ (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2024.