Sự nghiệp điện ảnh của Christopher Nolan
Christopher Nolan là một nam đạo diễn, nhà biên kịch, nhà sản xuất điện ảnh kiêm doanh nhân người Mỹ gốc Anh. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình qua bộ phim đầu tay Following (1998), bộ phim thuộc thể loại tội phạm – giật gân được thực hiện với kinh phí eo hẹp chỉ có 6.000 USD.[1][a] Hai năm sau, ông làm đạo diễn cho Memento (2000), tác phẩm thuộc thể loại tâm lý – giật gân – chính kịch với sự tham gia của Guy Pearce trong vai Leonard Shelby – người bị mắc hội chứng mất trí nhớ ngắn hạn đang bắt đầu hành trình đi tìm kẻ sát hại vợ của mình.[3] Memento có cấu trúc kể chuyện phi tuyến tính giống như bộ phim đầu tay của ông trước đó, và đây được xem là tác phẩm đột phá của ông.[4] Tác phẩm được giới chuyên môn khen ngợi và là một thành công bất ngờ về mặt thương mại.[5] Với bộ phim này, ông đã nhận được đề cử đầu tiên của giải DGA cho thành tựu đạo diễn xuất sắc nhất, và việc viết kịch bản cho bộ phim đã giúp ông nhận được đề cử giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất.[6][7] Tiếp đó, ông thực hiện bộ phim Insomnia (2002), tác phẩm được làm lại từ bản phim gốc ra mắt vào năm 1997 với sự tham gia diễn xuất của Al Pacino, Robin Williams và Hilary Swank.[8] Đây là bộ phim đầu tiên của ông dành cho Warner Bros. và là một thành công lớn cả về thương mại lẫn chuyên môn.[9][10]
Năm 2005, Nolan làm đạo diễn cho Huyền thoại Người Dơi, bộ phim siêu anh hùng của Warner Bros. có sự tham gia của Christian Bale trong vai Batman và kể câu chuyện về nguồn gốc của nhân vật chính.[11] Một năm sau, ông thực hiện tác phẩm The Prestige (2006), trong đó Bale và Hugh Jackman vào các vai Robert và Alfred – hai địch thủ ảo thuật gia vào thế kỷ 19.[12] Bộ phim tiếp theo của ông là phần phim tiếp nối của Huyền thoại Người Dơi mang tên Kỵ sĩ bóng đêm (2008), trong đó Bale trở lại vào vai Batman đối mặt với Joker do Heath Ledger thủ vai. Tác phẩm đã thu về tổng cộng hơn 1 tỷ USD trên toàn thế giới và là bộ phim có doanh thu cao nhất năm 2008;[13] đồng thời còn nhận tám đề cử tại giải Oscar lần thứ 81, và cá nhân Nolan có lần thứ hai được đề cử giải DGA.[14][15] Năm 2010, ông làm đạo diễn cho bộ phim Inception với sự tham gia của Leonardo DiCaprio trong vai Dom Cobb – một tên trộm dẫn đầu một nhóm chuyên đánh cắp thông tin bằng cách xâm nhập vào tiềm thức của mỗi người.[16] Tác phẩm được đề cử ở hạng mục Phim hay nhất tại các giải Oscar, giải BAFTA và giải Quả cầu vàng, riêng cá nhân Nolan có lần thứ ba được đề cử giải DGA.[17]
Hai năm sau, Nolan làm đạo diễn cho Kỵ sĩ bóng đêm trỗi dậy (2012), bộ phim tiếp tục đạt tổng doanh thu phòng vé trên toàn thế giới hơn 1 tỷ USD.[18] Ông tiếp nối sự thành công này bằng việc sản xuất bộ phim Người đàn ông thép (2013) của Zack Snyder và làm đạo diễn cho tác phẩm Hố đen tử thần (2014), với sự tham gia của các diễn viên gồm Matthew McConaughey, Anne Hathaway và Jessica Chastain. Tác phẩm sau đó giành giải Sao Thổ cho phim khoa học viễn tưởng hay nhất.[19] Năm 2017, ông làm đạo diễn cho tác phẩm Cuộc di tản Dunkirk, qua đó giúp ông có lần đầu tiên được đề cử giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất.[20] Ba năm sau, ông thực hiện tác phẩm thuộc thể loại hành động – khoa học viễn tưởng mang tên Tenet (2020).[21] Bộ phim tiếp theo trong sự nghiệp của ông là Oppenheimer (2023), tác phẩm thuộc thể loại tiểu sử – chính kịch xoay quanh về cuộc đời và sự nghiệp của Robert Oppenheimer, với Cillian Murphy thủ vai chính.[22] Tác phẩm đã giúp ông giành được giải Oscar cho Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, cùng với hàng loạt giải thưởng khác.
Phim điện ảnh
sửaTác phẩm chính
sửaNăm | Phim | Đạo diễn | Kịch bản | Sản xuất | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
1998 | Following[b] | Có | Có | Có | [23] |
2000 | Memento | Có | Có | Không | [23][24] |
2002 | Insomnia | Có | Không | Không | [23][24] |
2005 | Huyền thoại Người Dơi | Có | Có | Không | [23][24] |
2006 | The Prestige | Có | Có | Có | [23][24] |
2008 | Kỵ sĩ bóng đêm | Có | Có | Có | [23][24] |
2010 | Inception | Có | Có | Có | [23][24] |
2012 | Kỵ sĩ bóng đêm trỗi dậy | Có | Có | Có | [23][24] |
2013 | Người đàn ông thép | Không | Cốt truyện | Có | [23] |
2014 | Hố đen tử thần | Có | Có | Có | [23][24] |
2017 | Cuộc di tản Dunkirk | Có | Có | Có | [23][24] |
2020 | Tenet | Có | Có | Có | [9][25] |
2023 | Oppenheimer | Có | Có | Có | [26] |
Giám đốc sản xuất
sửaNăm | Phim | Ghi chú | Nguồn |
---|---|---|---|
2014 | Trí tuệ siêu việt | [23][24] | |
2016 | Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý | [23][24] | |
2017 | Liên minh Công lý | [23][24] | |
2019 | The Doll's Breath | Phim hoạt hình ngắn | [27] |
2021 | Liên minh Công lý phiên bản của Zack Snyder | Bản cắt của đạo diễn của Liên minh Công lý vào năm 2017 | [28] |
Phim ngắn
sửaNăm | Phim | Đạo diễn | Sản xuất | Kịch bản | Quay phim | Biên tập | Ghi chú | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1989 | Tarantella | Có | Có | Có | Có | Có | Không ra mắt chính thức, có sẵn tại Media Burn Independent Video Archive Đồng đạo diễn với Roko Belic |
[23][29] |
1996 | Larceny | Có | Có | Có | Có | Có | Không ra mắt chính thức | [23][24] |
1997 | Doodlebug | Có | Có | Có | Có | Có | [23] | |
2015 | Quay | Có | Có | Không | Có | Có | Đảm nhiệm cả vị trí soạn nhạc Phim tài liệu ngắn |
[23] |
Phim tài liệu đã tham gia
sửaNăm | Phim | Nguồn |
---|---|---|
2011 | These Amazing Shadows | [24] |
2012 | Side by Side | [23][24] |
2016 | Cinema Futures | [30] |
2018 | James Cameron's Story of Science Fiction | [31] |
2019 | Making Waves: The Art of Cinematic Sound | [32] |
Ghi chú
sửaTham khảo
sửa- ^ Sims, David (16 tháng 3 năm 2016). “How Memento Set the Framework for Christopher Nolan's Career”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ “Horror-On-Sea 2018 Interview: Brian Barnes discusses 'The Redeeming'”. Nerdly. 27 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2020.
- ^ Scott, A. O. (16 tháng 3 năm 2001). “Film Review; Backward Reel the Grisly Memories”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
- ^ Couch, Aaron; Kit, Borys (25 tháng 1 năm 2019). “Next Christopher Nolan Film to Open in July 2020”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ White, James (17 tháng 2 năm 2015). “Sleeping Beauties: The Story Behind 12 Of Cinema's Unlikeliest Hits”. Empire. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
- ^ Tapley, Kristopher (23 tháng 1 năm 2018). “Christopher Nolan Scores His First-Ever Oscar Nomination for Best Director”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ “The 74th Academy Awards”. AMPAS. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ Ebert, Roger (24 tháng 5 năm 2002). “Insomnia movie review & film summary (2002)”. Roger Ebert. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ a b McNary, Dave (25 tháng 1 năm 2019). “Christopher Nolan's Next Movie Gets July 2020 Release Date”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2019.
- ^ Giardina, Carolyn (24 tháng 6 năm 2012). “LAFF 2012: 'Dark Knight Rises' Cinematographer Wally Pfister Discusses His Directorial Debut”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ Ebert, Roger (13 tháng 6 năm 2005). “Batman Begins movie review and film summary (2005)”. Roger Ebert. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Thompson, Sam (15 tháng 11 năm 2006). “Can The Prestige survive its Hollywood transformation?”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
- ^ “Worldwide Grosses”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2010.
- ^ “The 81st Academy Awards”. AMPAS. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Child, Ben (9 tháng 1 năm 2009). “Nolan and Boyle nominated by DGA as Slumdog Millionaire sweeps Critics' Choice awards”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ French, Philip (18 tháng 7 năm 2010). “Inception”. The Observer. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Xem qua các nguồn:
- “The 83rd Academy Awards”. AMPAS. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- “Film Awards 2011: Winners List”. BAFTA. 13 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- “Inception”. Hollywood Foreign Press Association. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2019.
- Kilday, Gregg (10 tháng 1 năm 2011). “Darren Aronofsky, Christopher Nolan Among Directors Guild Nominees”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ McClintock, Pamela (2 tháng 9 năm 2012). “Box Office Milestone: 'Dark Knight Rises' Crosses $1 Billion Worldwide”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Cohen, David S. (26 tháng 6 năm 2015). “'Guardians of the Galaxy,' 'The Walking Dead,' 'Interstellar' Shine at Saturn Awards”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ “The 90th Academy Awards”. AMPAS. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Rubin, Rebecca (27 tháng 7 năm 2020). “'Tenet' Will Release Internationally in August Ahead of U.S. Debut”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
- ^ Fleming, Mike Jr. (9 tháng 9 năm 2021). “Christopher Nolan Bombshell: Director Talking To Multiple Studios On Film He'll Direct About J. Robert Oppenheimer & Development Of The A-Bomb In WWII”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Christopher Nolan”. Viện phim Anh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o “Christopher Nolan – Complete Filmography”. Turner Classic Movies. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
- ^ Sharf, Zack (15 tháng 8 năm 2019). “'Tenet,' Explained: 11 Things You Need to Know About Christopher Nolan's Action Epic”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2019.
- ^ Fleming, Mike Jr. (14 tháng 9 năm 2021). “Christopher Nolan Chooses Universal Pictures For His Film About J. Robert Oppenheimer & The A-Bomb”. Deadline Hollywood (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “The Doll's Breath”. Illuminations Media. 11 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2019.
- ^ Guerrasio, Jason (10 tháng 3 năm 2021). “Deborah Snyder says Christopher Nolan supported her husband Zack in his quest to make the 'Snyder cut'”. Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
- ^ “Image Union, episode 1313: Halloween Fright”. Media Burn Independent Video Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Venice Film Review: Cinema Futures”. Variety. tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
- ^ “James Cameron's Story Of Science Fiction is a solid, albeit navel-gazing, primer”. The A.V. Club. 30 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
- ^ “'Making Waves: The Art of Cinematic Sound' Review: You'll Never Hear Movies the Same Way Again”. IndieWire. 29 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2019.