Quân đội Đế quốc Mông Cổ

Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông Cổ là cơ sở cho người Mông Cổ chinh phục các quốc gia từ châu Á sang châu Âu, từ đó tạo lập nên đế quốc rộng lớn của họ.

Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ
Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.

Hệ thống này của người Mông Cổ ban đầu hình thành từ cách tổ chức đời sống du mục, về sau được Thành Cát Tư Hãn phát triển, rồi được mở rộng bởi tướng lĩnh và con cháu của ông. Quân Mông Cổ đã sử dụng các công nghệ và phương pháp khác nhau một cách linh hoạt và phù hợp với mỗi vùng đất mà họ chinh phạt. Các quân sư và chuyên gia vũ khí từ những đất nước khác đã được thu nhận và trọng dụng. Trong nhiều trường hợp, quân Mông Cổ đánh bại quân thù đông đảo hơn.

Cấu trúc chỉ huy của quân đội Mông Cổ rất linh hoạt, giúp họ có thể tổ chức tấn công hàng loạt, họ thường chia thành các nhóm nhỏ để bao vây kẻ thù và dẫn quân địch vào một khu vực phục kích, hoặc chia thành các nhóm nhỏ khoảng 10 người để truy quét tàn quân kẻ thù chạy trốn. Mặc dù họ chiến đấu theo đơn vị, từng người lính chịu trách nhiệm về trang bị, vũ khí của riêng họ và có tối đa năm con ngựa cưỡi. Gia đình và đàn gia súc đi cùng họ trong các cuộc viễn chinh.

Nguồn gốc

sửa

Khiết Đan

sửa

Người Khiết Đan có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của quân đội đế quốc Mông Cổ. Vào thời kỳ nổi lên của nước Liêu, họ có một đạo quân dày dặn kinh nghiệm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người Thổ Nhĩ Kỳ cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Yenisei Kyrgyzngười Hán. Quân đội Khiết Đan bao gồm một đội quân bảo vệ (ordo) là một đơn vị chiến đấu chuyên nghiệp với quân số 100.000 người kết hợp cùng với quân lính của tất cả các bộ lạc Khiết Đan. Về sau, tù binh từ các dân tộc bị họ chinh phục cũng được trưng dụng. Quân Khiết Đan được tổ chức theo hệ thống thập phân: đơn vị nhỏ nhất là một đội gồm 5 người, lớn hơn là các đội 10, 100 và 1.000 binh sĩ.

Người Khiết Đan thương sử dụng các binh sĩ chuyên việc phao tin đồn gây hoảng loạn trong doanh trại của kẻ thù. Trong các trận đánh, quân Khiết Đan sử dụng tất cả các kỹ thuật chiến đấu đặc trưng của người du mục: tấn công bất ngờ, giả vờ rút lui, phục kích.[1] Cuộc chiến mà họ tiến hành thường được mở màn bởi các cung thủ, họ bắn tên bao phủ đội hình quân địch. Tiếp theo là các đội quân giáo và kiếm xông lên. Sau đó, quân Khiết Đan truy kích tàn quân kẻ thù bại trận để tiêu diệt tận gốc. Người Khiết Đan đã khéo léo tiến hành các hoạt động bao vây và vây hãm, trong đó các tù nhân được sử dụng thường xuyên cho các hoạt động này. Trong các cuộc bao vây, người Khiết Đan cho đào và xây dựng các công sự xung quanh pháo đài mà họ muốn hạ.[1] Ngược lại, người Khiết Đan cũng xây dựng các pháo đài dã chiến có tháp và cổng để chống lại các cuộc tấn công của kẻ thù.

Vũ khí chính của quân Khiết Đan là cung. Ngoài cung tên, người Khiết Đan còn dùng giáo, phi tiêu, kiếm và chùy. Bộ binh được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau. Binh lính được bảo vệ bởi trát giáp (札甲) (áo giáp lamellar) hoặc áo giáp gỗ và mũ bảo hiểm. Ngựa cũng được trang bị áo giáp.[2]

Truyền thống quân sự Khiết Đan chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc, và đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quân đội của nhà nước Hắc Khiết Đan (Tây Liêu) và liên minh bộ lạc Nãi Man (乃蛮). Tuy nhiên, cho đến nay, rất ít sử liệu đề cập quân đội của vương quốc Tây Liêu. Tại Hãn quốc, tất cả đàn ông từ 18 tuổi đều có nghĩa vụ đi lính. Quân đội Hắc Khiết Đan bao gồm một đội quân bộ binh đông đảo, trang bị vũ khí giống như nhà nước Đại Liêu trước đó của họ. Năm 1211, ở Hắc Khiết Đan, Khuất Xuất Luật nắm lấy quyền lực.

Nữ Chân

sửa

Dân tộc Nữ Chân cũng có quân đội phát triển không kém gì Khiết Đan. Quân Nữ Chân được tổ chức theo cách tương tự như Khiết Đan: quân đội được chia thành các đơn vị 5, 10, 100 và 1.000.[3] Lực lượng cốt lõi của quân đội có vai trò bảo vệ hoàng gia. Kỷ luật sắt có vai trò quan trọng trong quân đội. Lực lượng chính của quân đội là kỵ binh, được chia thành kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. Các lực lượng khác bao gồm bộ binh, pháo binh ném đá và bắn súng, được xây dựng theo mô hình quân đội của Trung Quốc.

Chiến thuật của quân Nữ Chân bao gồm đánh tạt sườn, đánh tập hậutấn công đồng loạt. Một đội tiêu chuẩn sẽ bao gồm 20 kỵ binh bọc áo giáp và trang bị giáo sẽ tấn công xung phong. Đây là những chiến binh dũng cảm nhất, kiên định và mạnh mẽ nhất. Theo sau đội hình này là 50 cung thủ mặc áo giáp da được trang bị cung tên.[3] Quân Nữ Chân được nhận định khéo léo, dũng cảm và không khoa trương. Những người đương thời ngạc nhiên trước các kỵ binh Nữ Chân bởi khả năng vượt sông bằng ngựa của họ.

Vũ khí phổ biến nhất của quân Nữ Chân là cung. Trong cuộc chiến với nước Tống, họ cũng bắt đầu sử dụng nỏ. Quân trang có nhiều loại giáo, kiếm, gươm, chùychùy quả tạ, các loại rìu. Binh lính mặc trát giáp và đội mũ giáp để bảo vệ đầu.

Tổ chức quân đội

sửa

Hình thành quân đội, trường đào tạo tướng

sửa
 
Kỵ binh hạng nhẹ Mông Cổ.

Trong việc thành lập quân đội, người Mông Cổ theo truyền thống của những người du mục thảo nguyên, nhưng chính người Mông Cổ đã hoàn thiện nghệ thuật quân sự của các dân tộc du mục. Vào thế kỷ 12, quan hệ cộng đồng nguyên thủy của Mông Cổ tan rã. Các na nhan (那颜) - đại diện của giới quý tộc, họ có đàn gia súc lớn trên những đồng cỏ tốt là bộ phận nổi bật của dân cư. Thủ lĩnh của bộ lạc và lãnh đạo quân lính của Mông Cổ được gọi là hãn, có quyền nắm giữ và phân phát chiến lợi phẩm sau các cuộc cướp bóc. Từ tổ chức hệ thống bộ lạc, người Mông Cổ đã từng bước phát triển tổ chức quân sự dân chủ: các gia đình và bộ lạc được quản lý bởi Hốt lý lặc thai (hội đồng trưởng lão của bộ lạc).

Những người lính chuyên nghiệp Mông Cổ thành lập các đội gọi là нөхөр (từ Mông Cổ xưa, tạm dịch: Đội đồng hành) luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Sự hình thành và phát triển của các đội нөхөр đã góp phần vào sự xuất hiện và gia tăng sức mạnh của hãn, từ đó làm giảm tính tự do đời sống du mục của người Mông Cổ.[4] нөхөр là lực lượng nòng cốt trong các lực lượng vũ trang bộ tộc của Mông Cổ. Một trường huấn luyện quân sự cũng đã được thành lập để đào tạo tướng lĩnh.

Quân đội Mông Cổ được tổ chức theo hệ thống thập phân. Quân đội được chia thành hàng chục (thập hộ; 十户), hàng trăm (bách hộ sở; 百户所), hàng ngàn (thiên hộ chế; 千户制) và hàng chục ngàn (Vạn hộ chế; 万户制), đứng đầu là lĩnh ban (領班), bách phu trưởng, thiên phu trưởng và vạn phu trưởng. Hàng ngàn người không chỉ là một đơn vị quân đội, mà còn là một đơn vị hành chính - lãnh thổ. Các đơn vị vạn hộ chế thống nhất có đạo quân kỵ binh đông đảo với số lượng lên tới 100.000 người. Quân đội Mông Cổ được chia thành 3 phần: trung tâm, cánh phải và cánh trái. Trong quân đội thời Thành Cát Tư Hãn, một đơn vị gồm hàng chục và hàng trăm lính theo quy chuẩn xuất phát từ một gia tộc hoặc một nhóm gia tộc. Các đơn vị hợp thành lớn hơn, chẳng hạn như đơn vị thiên hộ chế, được hình thành bởi một nhóm các bộ tộc và bộ lạc thống nhất. Đây là một phần trong chính sách định hướng mục tiêu của Thành Cát Tư Hãn, với mục tiêu là vượt qua tình trạng mất đoàn kết và tập trung hóa quyền lực nhà nước.[5]

Tên đơn vị quân sự Số quân
Thập hộ 10
Bách hộ 100
Thiên hộ 1.000[6]
Vạn hộ[7][8] 10.000

Nhà nước Mông Cổ tập trung nhiều vào chiến tranh: phụ nữ có nghĩa vụ phải phục vụ. Pháp luật Mông Cổ ghi rằng:...những người phụ nữ hành quân cùng với quân đội nên làm các công việc và các nhiệm vụ của đàn ông trong và sau khi họ đi chinh chiến.[9] Những người không thể phục vụ trong quân đội thì phải có nghĩa vụ lao động.

Bảo vệ

sửa
 
Các chiến binh Mông Cổ được trang bị mạnh với hệ thống vũ khí công thành. Một bản biên niên sử thu nhỏ của Rashid ad-Din.

Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn:

"Một đội quân của khiếp bệ nên bổ sung những người con trai có năng lực và sức mạnh vượt trội của vạn phu trưởng, thiên phu trưởng, bách phu trưởng, cũng như con trai của những người thuộc tầng lớp tự do. Các con của họ phải đi quân dịch với mười cặp anh em trai. Các "na nhan" chuyên cấp ngựa phải gửi đến năm cặp anh em trai. Các con của lĩnh ban na nhan, cũng như con của những người tự do, phải đi quân dịch với ba cặp anh em trai, đồng thời tất cả đều có nghĩa vụ phải trình diện ngựa riêng, để hành quân qua các vùng đất."[10] Những người không thể phục vụ trong quân đội có nghĩa vụ lao động khác. Kỵ binh Mông Cổ được xem là yếu và ít hiệu quả so với lính cung thủ.

Dựa trên cách huy động này, vệ binh đông đến 10 nghìn lính. Vị trí đặc quyền mà đội vệ binh có là bất kỳ khiếp bệ nào sẽ đều có cấp bậc cao hơn một binh sĩ hoặc chỉ huy cùng cấp. Mặc dù có tư cách đặc quyền, lính canh khiếp bệ được giao thêm các nhiệm vụ: ở lại với hãn trong lúc không có chiến sự. Đội vệ binh từng tồn tại trong quân đội của nhiều dân tộc du mục, nhưng chính người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã thành công trong việc hợp nhất vệ binh với quân đội thành một.

Lệnh

sửa

Thành Cát Tư Hãn đã tạo ra một thể chế đặc biệt cho quân đội của ông, với trách nhiệm chính là lên kế hoạch bố trí quân đội, trinh sát quân địch, vạch ra các tuyến đường cho những người du mục, vị trí của các trại. Các tướng tham mưu được gọi là yurtsi (Mông Cổ bao thị) báo cáo trực tiếp việc binh sự lên hãn. Vị trí của yurtchi trưởng có thể sánh ngang với vị trí của thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc.[5]

Thành Cát Tư Hãn đích thân bổ nhiệm các chỉ huy các đoàn quân lớn, dựa trên công trạng và tài năng mà không phân biệt nguồn gốc xuất thân của người đó. Nhờ vậy, nhiều tướng lĩnh tài năng đã có thể tiến thân. Mặc dù vậy nếu tướng lĩnh có con trai xuất chúng và muốn chuyển địa vị chỉ huy hiện có cho đứa con thì cần phải có sự chấp thuận của hãn. Trường huấn luyện quân sự của người Mông Cổ được huấn luyện bởi vệ binh: họ là những người phục vụ trong đội vệ binh được tự động bổ nhiệm làm chỉ huy của đơn vị vạn hộ.[11]

Thư từ và báo tin, mua hàng hóa

sửa

Thành Cát Tư Hãn đã tổ chức một hệ thống gửi thư và báo tin hợp lý. Vô số "trạm bưu chính" xuất hiện trên lãnh thổ của đế chế. Tất cả các con đường dài được chia thành nhiều phần trong đó có một quan chức coi quản để duy trì trật tự, người qua lại và hàng hóa. Tại các trạm này, họ ưu tiên cho kỵ binh đưa thư của hãn. Nhờ những đổi mới này, các mệnh lệnh của hãn đã nhanh chóng đến được quân đội ở các nơi. Điều này được đề cập trong Yase (luật) của Thành Cát Tư Hãn: Ông ra lệnh thiết lập các vị trí thường trực cho đại hãn, để sớm biết về tất cả các sự kiện diễn ra trong đế quốc.[9]

Thành Cát Tư Hãn cũng tổ chức một lực lượng hậu cần cho quân đội của ông. Nhiệm vụ cung cấp cho quân đội mọi thứ cần thiết từ vũ khí, phương tiện, trang thiết bị đến nhà ở. Nhiệm vụ của họ cũng bao gồm việc phân phát các chiến lợi phẩm cướp được, trong đó hãn nhận được một phần năm, tương đương chỉ huy đơn vị.[5]

Kỷ luật

sửa

Thành Cát Tư Hãn đã thiết lập kỷ luật sắt cho quân đội Mông Cổ. Đối với nhiều tội trạng, phạm nhân thường phải đối mặt với án tử hình. Trong trường hợp một người lính đào ngũ khỏi chiến trường, hàng chục người mà anh ta làm chủ sẽ bị xử tử, và nếu đó là chỉ huy thì sẽ lên tới cả trăm người bị xử tử cùng lúc (mặc dù vậy, một số nhà sử học cho rằng thông tin về luật lệ hà khắc như vậy trong quân đội Mông Cổ chỉ là bản dịch sai các tác phẩm của Plano Carpini[12]). Một hệ thống tương tự như vậy cũng đã từng tồn tại trong quân đội Nữ Chân. Bộ luật được thành lập bởi Thành Cát Tư Hãn (gọi là Yasa), yêu cầu những người lính hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, nếu trong một cuộc hành quân, một người lính Mông Cổ đánh rơi thứ gì đó xuống đất, người lính di chuyển phía sau anh ta có nghĩa vụ phải nhặt thứ rơi xuống đó lên và trao lại cho người chủ của nó, nếu không thì người sau sẽ phải đối mặt với hình phạt tàn khốc. Mỗi chiến binh Mông Cổ có nghĩa vụ phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc hành quân: hình phạt có thể được áp dụng bởi sự thiếu chuẩn bị vũ khí và những thứ cần thiết trên đường hành quân. Hình phạt tử hình cũng được áp dụng, chẳng hạn như cướp bóc chưa đúng thời cơ vào trại địch hoặc ngủ tại doanh trại. Phạm tội nhỏ thường bị trừng phạt bằng tiền phạt cũng như hình phạt về thể xác.[9]

Giáo dục và đào tạo

sửa
 
Chiến binh Mông Cổ. Tranh cuộn cỡ nhỏ về cuộc xâm lược của người Mông Cổ thế kỷ 13

Trẻ con Mông Cổ ngay từ lúc nhỏ đã quen với việc ngồi trên yên ngựa. Khi đứa con lên ba tuổi, người mẹ sẽ đặt chúng lên yên ngựa đã được buộc vào lưng ngựa. Khi được bốn, năm tuổi, đứa trẻ nhận cây cung đầu tiên. Và từ đó, nó dành phần lớn thời gian trên yên ngựa để săn bắn và chiến đấu. Trong các chiến dịch quân sự, người Mông Cổ có thể ngủ trên yên ngựa, nhờ đó giữ được tốc độ hành quân nhanh chóng. Các chiến binh Mông Cổ được biết đến về khả năng chịu đựng phi thường. Vì vậy, Marco Polo ghi lại rằng người Mông Cổ, nếu cần, họ có thể di chuyển mà không có thức ăn nóng trong mười ngày. Ngoài ra, nếu cần thiết, một chiến binh có thể uống máu con ngựa của anh ta bằng cách mở tĩnh mạch ở cổ của ngựa.[13] Từ thời thơ ấu các chiến binh Mông Cổ đã sở hữu nhiều loại vũ khí và bắn cung thành thạo.

Trong thời gian huấn luyện, chiến binh Mông Cổ triển khai diễn tập chiến đấu giống như một cuộc săn bắn. Khi mùa săn bắn đến, người Mông Cổ mài giũa kỹ năng điều động và bao vây. Họ triển khai đội hình vòng tròn đột kích xung quanh một vùng đất rộng lớn để săn bắn, và dần dần trong vòng một đến ba tháng lùa chúng về vùng đất có hãn đóng trại. Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc săn bắn, khi đội hình bao vây vòng tròn khép lại, mỗi người buộc dây quanh chu vi vùng đất bằng dây thừng. Việc bắn những con thú bị lùa và nhốt sẽ bắt đầu từ hãn, theo sau là các hoàng tử và theo sau đó là binh lính.[5] Guillaume de Rubruk mô tả cuộc săn bắn của người Mông Cổ như sau: "Khi họ muốn săn thú, họ tập hợp lại với số lượng lớn, bao quanh một địa hình, nơi họ biết có những con thú, họ dần dần tiếp cận chúng cho đến khi các con thú bị lùa chặt trong một vòng tròn, sau đó họ tấn công chúng bằng cung tên.[14]

Quy mô quân đội

sửa

Qua nhiều thời kỳ, giới sử học đã đưa ra những con số khác nhau về số lượng quân đội Mông Cổ. Số lượng tối đa được đưa ra là 600.000 bởi Giovanni da Pian del Carpine.[15] Nikolai Mikhailovich Karamzin ước tính tổng số quân Mông Cổ xâm chiếm nước Nga là 500.000 người.[16] Nhưng sau đó ông đã giảm ước tính của ông xuống còn 300.000 người.[17] Quân số Mông Cổ đã bị phóng đại rất nhiều, về sau các nhà sử học đưa ra những con số ước tính khác nhau về quân số của Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô. Việc xác định số quân là vô cùng khó khăn do số quân của Mông Cổ nằm dao động qua các thời kỳ khác nhau, các nhà nghiên cứu người Ba Tư, người Trung Quốc và người Nga có xu hướng đánh giá quá cao số lượng của quân Mông Cổ. E. Hara-Davan dựa trên dữ liệu từ các nhà nghiên cứu tại Anh đã tuyên bố số lượng quân Mông Cổ tối đa trong toàn bộ thời kỳ trị vì của Thành Cát Tư Hãn là 230.000. Dưới đây là dữ liệu về các đơn vị quân đội khác nhau của quân đội Mông Cổ trong chiến dịch đánh Khorezm.[18]

khiếp bệ trung tâm cánh phải cánh trái phụ trợ Tổng cộng
Số lượng 1.000 101.000 47.000 52.000 29.000 230.000

Rashid-al-Din Hamadani trong biên niên sử do ông soạn[19] ghi rằng vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn qua đời, số lượng quân đội Mông Cổ là 129.000. Hara-Davan và G.V. Vernadsky chấp nhận con số này.[5]

Vũ khí và trang bị

sửa
 
Trang bị nặng của quân Mông Cổ. نگارگری ایرانی

Vũ khí chính của quân Mông Cổ là một cây cung tổng hợp được phủ một lớp men vecni (men của Trung Quốc).[20] Lớp Vecni này bảo vệ vũ khí khỏi bị ẩm ướt và giữ khô ráo. Cung thủ sử dụng 2 loại cung tên: cung tên của Trung Quốc và cung tên của Trung Đông. Mỗi chiến binh sở hữu một số cung và túi mang nhiều mũi tên thuộc nhiều loại khác nhau, và có thêm một vỏ da lớn để bọc cây cung. Mỗi túi đựng tên thường đựng 30 mũi tên. Ngoài ra, tất cả những người lính đều có dây cột ngựa chuyên dụng (en) mà họ dùng để săn bắn và dùng trong chiến đấu, cũng như mang theo dao hay các loại vũ khí nhẹ khác. Ngoài ra, mỗi chiến binh phải có một cây kim và sợi chỉ, một cái dùi và một sợi dây thừng, một công cụ để mài đầu mũi tên, một chiếc mũ nơ và một túi thức ăn. Khi băng qua sông, các chiến binh Mông Cổ sử dụng túi bằng da, đồ đạc và quần áo được gấp lại vào đó để tránh bị ướt. Vào mùa đông, các chiến binh Mông Cổ đội mũ lông và áo khoác da cừu bên ngoài áo giáp của họ.

Người Mông Cổ chiến đấu trên lưng ngựa với những con ngựa thấp[21] cực kỳ khỏe mạnh trong mọi điều kiện khí hậu. Trong lúc hành quân, ngựa được bảo vệ khỏi cái lạnh bằng lớp len dày đặc. Những con ngựa này có thể được chăm sóc theo nhiều cách.[a] Chúng có thể ăn cỏ trên đường khi đang di chuyển, ăn cả rễ và lá cây. Chúng có thể ăn mọi loại cây cỏ khác nhau.[b] Vào mùa đông, những con ngựa có thể ăn các thức ăn mà chúng tìm thấy bên dưới các lớp tuyết. Thông thường, mỗi người dân du mục sở hữu 3 con ngựa (nhiều hơn so với những dân tộc định cư), nhưng theo mệnh lệnh của Thành Cát Tư Hãn thì cần 5 ngựa cho mỗi chiến binh.[26] Theo George Vernadsky[5] những con ngựa Mông Cổ trong thời kỳ chinh phục của họ là con lai của giống ngựa địa phương và ngựa nhập khẩu từ Ba Tư.[27]

Yên ngựa khá nặng, nặng tới 4 kg và được bôi mỡ cừu để tránh bị ướt khi trời mưa. Những chiếc yên ngựa có độ cong cao. Các bàn đạp được kỵ binh Mông Cổ sử dụng thì tương đối ngắn.[11]

Kỵ binh nhẹ

sửa

Kỵ binh hạng nhẹ được trang bị bảo vệ bởi một chiếc mũ sắt và áo giáp làm bằng da hoặc các vật liệu mềm khác. Một bộ giáp bảo vệ như vậy được gọi là "Khatangu-degel." Cả bộ thường được gia cố bằng các tấm kim loại tán đinh từ bên trong. Chúng được sử dụng phổ biến trong quân đội Mông Cổ. Vũ khí chính của kỵ binh là một cây cung. Ngoài cung tên, kỵ binh nhẹ Mông Cổ cũng sử dụng giáo, chùy, dao, rìu nhỏ và ít phổ biến hơn là phi tiêu.[28]

Kỵ binh nặng

sửa

Kỵ binh nặng được vũ trang mạnh bao gồm các loại gươm hay kiếm, một cây giáo dài có móc để tròng và kéo lính địch ra khỏi yên ngựa, một chiếc rìu lớn, một trát giáp hoặc áo giáp gỗ, một chiếc mũ sắt, một chiếc khiên tròn nhỏ. Các loại vũ khí bằng gỗ dài khác nhau cũng được sử dụng, đặc biệt là một loại đao cán dài. Ngoài kim loại, da dày được chế tác nhiều kiểu và được sử dụng kết hợp với các loại vật liệu cứng khác. Hầu hết các kiểu là áo giáp hoặc các vật che chắn để bảo vệ cơ thể. Như áo giáp gương, giáp cẳng tay, giáp cẳng chân. Mũ bảo vệ, mặt nạ, loại mặt nạ che nửa mặt, tấm lưới kim loại để bảo vệ và máng che mắt. Áo giáp thường được phủ men vecni và sơn trang trí. Giovanni da Pian del Carpine đã mô tả công nghệ sản xuất áo giáp bằng kim loại của người Mông Cổ như sau:

...Họ làm một dải (kim loại) mỏng dài bằng chiều rộng của ngón tay và chiều dài của lòng bàn tay, họ chuẩn bị nhiều dải; mỗi dải được khoét tám lỗ nhỏ và chèn ba dây đai chặt với nhau ở bên trong, đặt các dải này lên nhau, chồng lên các gờ, và buộc các dải trên bằng dây đai mỏng xuyên qua các lỗ đã khoét; ở phần trên, họ khâu một dây đeo, gấp đôi ở hai bên và may nối với dây đeo kia, sao cho các dải khớp với nhau thật đều và chắc chắn, sau khi hoàn thành tạo các dây đeo từ các dải, buộc mọi thứ lại với nhau thành từng mảnh. Họ làm cả hai loại, loại để trang bị ngựa và loại để trang bị cho người. Và họ làm cho nó bóng loáng để mọi người có thể nhìn thấy khuôn mặt của người lính mang chúng[29].

Chùy cũng được sử dụng phổ biến. Về sau, vũ khí quả tạ và áo giáp vòng tròn xuất hiện trong kho vũ khí của kỵ binh nặng Mông Cổ. Đến thế kỷ thứ 14, Khatanga degel được gia cố từ bên trong bằng các tấm sắt đã trở thành áo giáp phổ biến nhất: gồm loại carapace của người Mông Cổ và loại của người Nga gọi là kuyak. Ngoài ra, các kiểu áo giáp kết hợp cũng xuất hiện, kết hợp các loại áo giáp khác nhau. Quân đội cũng có thói quen mặc nhiều áo giáp cùng một lúc.[30]

Các chiến binh nổi bật và giàu có nhất bảo vệ ngựa của họ bằng áo giáp bằng da hoặc sắt.

 
Sự sụp đổ của Baghdad. Minh họa trong Jami 'at-tawarih của Rashid ad-din. Tuyến đầu là các chiến binh Mông Cổ với vũ khí hạng nặng. Bên trái - Vũ khí bao vây của Mông Cổ

Kỹ thuật bao vây

sửa

Quá trình nắm bắt và sử dụng các trang bị quân sự của người Mông Cổ diễn ra theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn ban đầu, người Mông Cổ đã vay mượn các công nghệ bao vây của người Đảng Hạng, sớm hơn so với người Trung Quốc và người Nữ Chân. Người Mông Cổ mượn các yếu tố của kỹ thuật bao vây Đảng Hạng làm phương tiện chiến đấu (như tháp bao vây là loại phát triển của họ), nhiều loại máy phóng khác nhau (từ máy ném đá đơn giản và máy phóng nhẹ đến máy ném đá cố định). Quân đội Đảng Hạng cũng dùng các thiết bị phụ trợ sử dụng trong các cuộc bao vây (móc sắt, dây thừng, thuổng và rìu). Người Mông Cổ đã vay mượn tất cả những thứ này và áp dụng thành công trong các cuộc bao vây.

Quân Mông Cổ đã làm quen với kỹ thuật bao vây của người Nữ Chân trong quá trình họ tiến hành các chiến dịch xâm lược, mặc dù thực tế là trước đó họ đã tấn công lãnh thổ Nữ Chân. Máy phóng Nữ Chân mà người Mông Cổ vay mượn tốt hơn máy phóng của Đảng Hạng, được chia thành nhiều loại, ngoài ra họ còn dùng máy ném đá đủ các loại. Các trang bị bao vây Nữ Chân tương tự với trang bị của Trung Quốc. Loại trang bị này của quân Nữ Chân cũng được trang bị thiết bị chữa cháy (chống lại mũi tên lửa và chống lại đạn pháo). Bắt chước các đối thủ của mình, quân Mông Cổ đã thành lập các đơn vị kỹ thuật và pháo binh trong quân đội của họ, có nhân sự được đào tạo và hỗ trợ vật chất đầy đủ.[31]

Người Mông Cổ cũng dùng vũ khí công thành lấy được từ lãnh thổ Trung Quốc mà họ đã chinh phục, đặc biệt là các cỗ máy công thành Trung Quốc hoạt động theo nguyên tắc đòn bẩy, cũng như loại nỏ cỡ lớn vận hành ít nhất bởi 100 người lính. Ngoài ra, người Mông Cổ đã sử dụng đạn pháo cầm tay và pháo công thành chứa đầy thuốc súng hoặc các vật liệu dễ cháy khác.

Về sau, các thiết bị bao vây từ thế giới Hồi giáo đã được đưa vào sử dụng trong quân đội Mông Cổ, đặc biệt là trebuchet cỡ lớn (tiếng Ả Rập gọi là Manjanik), bắn đạn đá nặng tới 70 kg. Người Mông Cổ sử dụng máy phóng và máy dùng lò so xoắn với các bộ phận đối trọng mà các kỹ sư Trung Quốc không biết, người Mông Cổ gọi là "hồi hồi pháo" (回回炮). Theo Giovanni da Pian del Carpine, quân Mông Cổ cũng sử dụng trang bị gọi là lửa Hy Lạp. Trong cuộc bao vây, quân Mông Cổ đã sử dụng bất kỳ vật liệu ngẫu hứng nào để dùng mà không cần mang theo sẵn đạn pháo. Trong việc công thành, người Mông Cổ ưa thích dùng các kiểu nồi chứa đạn pháo, từ đó quân thủ thành không còn có thể chống lại hiệu quả những kẻ bao vây. Vũ khí công thành thường được điều khiển bởi các tù nhân và được chỉ dẫn bởi các kỹ sư Trung Quốc và Hồi giáo. Người Mông Cổ cũng canh tân quân đội, bắt đầu lần đầu tiên khi họ sử dụng đạn cháy. Vì vậy, để đối phó lại quân Mông Cổ, vào năm 1259, quân Nam Tống đã tạo ra và sử dụng hỏa thương, bắn đạn ở khoảng cách lên tới 250 mét.[11]

Chiến lược

sửa
 
Chiến binh Mông Cổ trên một bức tranh Ba Tư

Chiến lược của quân đội Mông Cổ dựa trên khả năng tổ chức tốt, hoạt động ngoại giao và di chuyển tốc độ nhanh, giúp cho quân Mông Cổ có dễ dàng chia cắt lực lượng của đối thủ và tấn công liên tục họ.

Trước cuộc tấn công, quân Mông Cổ gửi đội thám thính gồm khoảng 2-3 người để nắm bắt tình hình quân địch.

Trước khi bắt đầu tấn công, Hốt lý lặc thai được triệu tập, có sự tham gia của các vị tướng cao nhất. Tại đó, họ nhận được mệnh lệnh từ hãn, người lãnh đạo cao nhất toàn quân trong thời gian chiến tranh, sau đó các vị tướng có thể tùy cơ hành động độc lập, họ rất thích thái độ tự tin của hãn. Ngay sau các cuộc thảo luận tỉ mỉ về chiến dịch sắp tới, các lính thám thính và gián điệp đến doanh trại địch. Hàng loạt gián điệp đội lốt thương nhân đã cung cấp cho bộ chỉ huy Mông Cổ thông tin về tất cả những nơi phòng bị yếu và dễ bị tổn hại của quân đối phương, họ cũng thông báo cẩn thận cho tướng lĩnh Mông Cổ về tình hình chính trị trong khu vực. Người Mông Cổ thường gieo rắc bất hòa và mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, phao tin đồn phóng đại về quân số khổng lồ và sự bất khả chiến bại của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ cũng hứa sẽ đảm bảo an toàn cho quân thù nếu họ đầu hàng mà không chiến đấu.[5] Ở Kurultai, việc huy động bao nhiêu binh lính cũng được mang ra thảo luận, dự kiến về quân số sẽ gửi đến từng chiến dịch xâm lược sắp tới. Người Mông Cổ cẩn thận chọn lựa thời điểm trong năm để tấn công quân thù. Cuộc tấn công vào Nga đã được lên kế hoạch vào mùa đông năm 1237-1238, vì các con sông đóng băng tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển của kỵ binh Mông Cổ và phục vụ như tuyến đường hậu cần.[11][c] Lợi thế chiến lược của quân đội Mông Cổ là tốc độ hành quân nhanh, vì mỗi chiến binh Mông Cổ có 3-5 con ngựa. Trong những lần di chuyển, người Mông Cổ sử dụng túi da để đặt quần áo và các tài sản khác vào đó. Nhờ đó mà người Mông Cổ nhanh chóng vượt qua những con sông lớn.

 
Quân đội Mông Cổ hành quân (tái hiện hiện đại)

Trong chiến dịch tấn công, người Mông Cổ phân chia quân đội của họ thành nhiều phân đội lớn, cùng các nguồn hậu cần đi kèm cần thiết để nuôi sống họ, cũng như để chiếm được chiến lợi phẩm tối đa. Vài ngày trước giao chiến, các toán lính nhỏ tiên phong di động tiếp cận quân địch, họ mang về cho tướng lĩnh Mông Cổ thông tin về vị trí và sức mạnh của quân địch. Nếu có một đội quân địch đông đảo ở phía trước quân Mông Cổ, thì các tướng sẽ tránh giao chiến trong 1-2 ngày, hạn chế việc cướp bóc những vùng xung quanh. Nếu không thể di chuyển vòng quanh quân thù, quân Mông Cổ rút lui sau đó mới quay lại. Thường họ đóng quân ở một địa điểm an toàn, chờ cho đến khi quân địch di chuyển và phân tách các cánh quân. Người Mông Cổ chớp cơ hội nhanh chóng hội quân của họ và tấn công, sử dụng yếu tố bất ngờ, và họ đã nhanh chóng chiếm được các thành trì trong khi quân địch không thể kịp quay về hỗ trợ quân thủ thành bị bao vây. Để đánh bại quân thù tại các tuyến phòng thủ nhất định (như một thành trì pháo đài, một doanh trại dã chiến kiên cố) hoặc tạm thời cắt đứt quân đội một trong những lực lượng của liên minh thù địch khỏi cuộc chiến, người Mông Cổ tiến hành đàm phán với kẻ thù, bao gồm nhờ các đại diện của giới quý tộc địa phương. Mua chuộc kẻ thù cũng là một phương pháp thường được sử dụng. Một trong những nguyên tắc chính của chiến lược quân sự Mông Cổ là truy đuổi quân thù bị đánh bại cho đến khi đối thủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đơn vị vạn hộ là đơn vị phân tách của Mông Cổ chia ra tác chiến nhiều nơi, tiếp tục tấn công đất nước đối thủ. Để đảm bảo sự thống trị vô điều kiện trong tất cả các vùng họ tấn công, quân Mông Cổ cố gắng tiêu diệt toàn bộ lực lượng vũ trang của kẻ thù, làm suy yếu khả năng phục hồi, quân Mông Cổ tấn công vào các trung tâm thủ công nghiệp, bắt giữ chủ và thợ thủ công, đưa họ về Mông Cổ. Cách hủy hoại này lặp đi lặp lại trên lãnh thổ đối phương cũng như các chư hầu của nước đối thủ.

Các nhà nghiên cứu đã có những đánh giá khác nhau, đôi khi trái ngược về cách chiến đấu của các quân đội đối thủ của người Mông Cổ. Nhiều phương pháp chiến đấu chống lại Mông Cổ bị xem là sai lầm. Ví dụ, sai lầm của vua Muhammad II của Khwarezm là ông đã phân tán quân đội của mình trên khắp các thành trì, không cho quân Mông Cổ một trận chiến quyết định, ông đã bỏ lỡ cơ hội trong khi các thành trì đã đánh lạc hướng các bộ phận của quân đội Mông Cổ tới vài tháng. Đồng thời, việc rút quân trong các trận đánh dã chiến với quân Mông Cổ thường được coi là sai lầm của các tướng lĩnh châu Âu, vì chiến thắng trên thực địa đóng một vai trò quan trọng trong việc chống lại sự cai trị của Mông Cổ (như Trận sông Sinyukha, Trận Kulikovo).

Chiến thuật

sửa
 
Trận đánh giữa quân Mông Cổ và samurai. Các chiến binh Mông Cổ, ngoài cung tên còn sử dụng bom chứa đầy thuốc súng - Tranh cuộn Nhật Bản thế kỷ 13

Chiến thuật của quân Mông Cổ dựa vào việc làm thiệt hại quân thù bằng cách điều động và bắn cung với lực lượng kỵ binh hạng nhẹ, sau đó một kỵ binh giáp nặng sẽ đánh quân thù suy yếu và mất tinh thần, mà như một quy luật họ không thể chịu đựng được. Quân Mông Cổ đã tìm cách quyết định kết quả ở giai đoạn đầu của trận đánh để tránh tổn thất lớn. Kỵ binh nhẹ Mông Cổ tác chiến trong một đội hình hỗn hợp bắn tràn ngập mũi tên bao phủ đội hình quân địch. Việc bắn tên hiệu quả hay không phụ thuộc vào sự huấn luyện chu đáo binh lính và tầm bắn xa của mũi tên. Lính cung thủ sẽ bắn cung trong khoảng thời gian ngắn để gây ra tổn thất nặng nề cho quân thù. Quân Mông Cổ đã sử dụng thành công chiến thuật giả vờ rút lui để làm rối loạn quân thù, nếu quân thù chịu được các cuộc tấn công đầu tiên, cũng như chịu được phục kích. Mặt khác, quân Mông Cổ thường cho quân thù cơ hội rút lui để đánh họ ngay khi họ rút quân. Hành quân đánh vòng rất phổ biến, các cung thủ Mông Cổ sẽ xếp thành một vòng cung trước chính diện đội hình quân thù và bắt đầu di chuyển, họ sẽ "tắm" quân thù trong "mưa" mũi tên. Người Mông Cổ chỉ đánh sáp lá cà khi quân thù suy yếu và hàng ngũ của quân thù mất tinh thần. Sau đó, quân Mông Cổ tấn công bằng những đợt lính đánh tiên phong, cố gắng đánh tạt sườn quân thù. Trận đánh được dứt điểm bởi một cuộc cuộc tấn công kỵ binh hạng nặng nhằm vào vị trí dễ bị tổn thất nhất trong hàng lính quân thù. Kỵ binh nặng được tổ chức thành đội hình kết hợp. Trong trận đánh cận chiến, quân Mông Cổ phân chia quân thành các đơn vị riêng biệt, do đó luân phiên đưa đơn vị mới vào trận chiến. Nếu diễn biến trận đánh không thuận lợi cho quân Mông Cổ, thì họ ném bớt trang bị để tăng độ chính xác và tốc độ bắn. Trong trường hợp thất bại, quân Mông Cổ sẽ rút lui một cách phối hợp, mỗi chiến binh Mông Cổ dưới áp lực đe dọa của hình phạt nghiêm khắc từ cấp trên buộc họ phải thực hiện tốt cuộc rút lui này.[32]

 
Đội hình chiến đấu của quân Mông Cổ
từ bài báo "Lịch sử nghệ thuật quân sự"»
Từ điển bách khoa quân sự Sytin»; năm 1913)

Trước trận đánh, một đội tiên phong gồm binh lính vũ trang nhẹ tiến về phía trước. Nhiệm vụ của họ là "tắm" quân thù trong "mưa" mũi tên, làm bị thương ngựa chiến, gây đảo lộn đội hình kết hợp và dẫn đến hỗn loạn. Đội tiên phong được theo sau bởi một cánh quân bên phải và một cánh quân bên trái. Họ cũng có đội tiên phong riêng. Đối với quân Mông Cổ trước trận đánh, thông thường họ tổ chức quân thành 5 hàng. Các hàng cuối cùng bao gồm các chiến binh được trang bị mạnh, thường là kỵ binh giáp nặng triển khai ở hai hàng đầu tiên, và các đội kỵ binh trang bị nhẹ thường xuất kích tiên phong qua các khoảng trống trong hàng của kỵ binh giáp nặng.[11] Quân cánh trái chiến đấu từ xa, chủ yếu tấn công quân thù bằng cung tên. Cánh phải là lực lượng chính của cuộc tấn công. Nhiệm vụ của quân cánh phải là tiếp cận hoặc vượt ngang qua đội hình trung tâm của quân thù, cắt ngang họ tìm cách giết chết chỉ huy. Cả hai cánh được giữ liên kết phía sau bởi đội hình chính của quân đội và đội cận vệ của hãn. Bên sườn đội cận vệ của hãn thường được đặt phía sau lưng của lực lượng chính.[26] Trong trận đánh, quân Mông Cổ luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc tấn công quyết định hoặc đẩy lùi đòn đánh của quân thù. Theo Giovanni da Pian del Carpine, các tướng lĩnh không bao giờ tham gia chiến đấu, họ chỉ giữ vai trò điều binh suốt trận đánh.

 
Tổ chức trong trận Mohi. Việc phân chia đội hình quân Mông Cổ thành nhiều đơn vị riêng biệt được quan sát rõ ràng.

Trong trận đánh, người Mông Cổ âm thầm thực hiện tất cả mọi cách thức, như sử dụng cờ trắng và đen vào ban ngày và đèn lồng vào ban đêm. Một cuộc tấn công quyết định luôn được ra hiệu cho toàn quân bằng trống nakkara được vận chuyển bằng lạc đà. Một cuộc tấn công trực diện luôn kết hợp với các cuộc tấn công vào sườnphía sau để gây bất ngờ cho quân thù. Trong lúc bao vây, quân Mông Cổ luôn để lại cho quân thù một đường để rút lui, vì họ hiểu rằng nếu quân thù bị bao vây hoàn toàn thì họ sẽ chiến đấu quyết liệt hơn. Sau khi đánh bại quân thù trong trận chiến, quân Mông Cổ tổ chức truy kích. Việc này có thể kéo dài vài ngày và chủ yếu do kỵ binh hạng nhẹ thực hiện.

Bất chấp tất cả những lợi thế rõ ràng nhưng quân đội Mông Cổ đôi khi phải chịu đựng thất bại liên quan đến một số tính toán sai lầm về chiến thuật. Ví dụ nổi bật nhất là trận Ain Jalut, khi quân Mamluk giả vờ rút lui, kéo quân Mông Cổ đến nơi họ phục kích. Quân Mamluk nhanh chóng tận dụng tình huống có lợi mà tổ chức phản công, họ đánh quân Mông Cổ từ ba phía và đánh bại kỵ binh Mông Cổ.[33]

Các cuộc bao vây thành phố

sửa
 
Cuộc bao vây Baghdad năm 1258 trên một bức họa Ba Tư

Một nhược điểm trong chiến thuật quân sự của Mông Cổ là không thể chiếm được thành trì. Vì khả năng và sở thích của họ là giao chiến với quân thù trên một vùng đất rộng mở. Nếu quân đội Mông Cổ tác chiến trong một khu vực được phòng thủ tốt, thì tướng lĩnh quân đội Mông Cổ thích đánh tập hậu địch từ phía sau lưng. Người Mông Cổ bắt đầu thu nhận các kỹ sư Trung Quốc và sau đó là các kỹ sư Hồi giáo chuyên về bao vây, để công phá thành trì. Do đó, người Mông Cổ đã sớm tiếp nhận kho tàng vũ khí công thành của nhiều dân tộc.

Trong hoạt động bao vây, người Mông Cổ sử dụng rộng rãi lao động là tù nhân. Mỗi kỵ binh có nghĩa vụ phải mang theo 10 tù nhân.[34] Họ đặt dưới sự giám sát của các kỹ sư, làm các công việc chế tạo và bảo dưỡng các phương tiện công thành, trực tiếp thực hiện bao vây thành trì kẻ thù, lấp hoặc đào mương. Trong các cuộc tấn công, quân Mông Cổ đã thúc các tù nhân ra tuyến trước, sử dụng họ như lá chắn sống (thông thường người Mông Cổ sử dụng chiến thuật này trong các trận chiến đấu mở). Tù nhân trở thành phương tiện chính trong cuộc chiến bao vây các thành trì từ lâu, vốn đã được sử dụng ở nhiều dân tộc phương Đông - bởi Seljuks, Khiết ĐanNữ Chân.[35] Khi tiến hành bao vây, quân Mông Cổ phá hoại mọi thứ xung quanh, nếu có một con sông gần pháo đài bị bao vây, họ sẽ chặn nó bằng các con đập để thay đổi dòng chảy làm ngập các công sự của đối phương. Quân Mông Cổ không dừng trận chiến trong một ngày, họ không cho quân bảo vệ thành được nghỉ ngơi. Người Mông Cổ chia quân thành các đơn vị luân phiên, thay thế nhau liên tục tấn công dồn dập. Nhiều nguồn sử liệu cũng ghi chép hoạt động xây dựng các bức tường, hàng rào hoặc thành lũy cao xung quanh pháo đài bị bao vây. Tuy nhiên, người Mông Cổ không ngừng cố gắng lôi kéo quân thủ thành vào trận chiến mở, họ sử dụng các toán lính nhỏ để khiêu khích đối phương.[31]

Tiếp tục phát triển

sửa

Theo các thời kỳ lịch sử, sự phát triển quân đội của các quốc gia do người Mông Cổ lập nên đã trải qua những thay đổi đáng kể. Họ đạt đỉnh cao cả nghệ thuật quân sự và sử dụng vũ khí. Hệ thống đơn vị thập phân dùng trong quân đội ở các quốc gia Mông Cổ dần biến mất, theo các điều kiện địa phương khác nhau mà tên Mông Cổ dần được thay thế bằng tên theo các ngôn ngữ Turkic. Các đơn vị quân cỡ lớn (như kulakoshun trong quân đội Thiếp Mộc Nhi) có số lượng thay đổi. Các quân đội của các quốc gia Mông Cổ cũng có bộ binh. Lính cung thủ được trang bị nhẹ và lính bộ binh trang bị nặng, mặc áo giáp, mũ bảo vệ và được bảo vệ bằng khiên chắn. Họ được trang bị kiếm, rìu, dao găm và chùy,... Kỹ thuật công thành cũng phát triển ở các vùng đất Mông Cổ cai trị, đặc biệt là ở các vùng nông nghiệp định cư.[30]

Hãn quốc Kim Trướng

sửa

Hãn quốc Kim Trướng (cũng như một phần Hãn quốc Sát Hợp Đài) có một truyền thống quân sự liên tục không ngừng phát triển, ảnh hưởng chủ yếu bởi đặc tính đa quốc gia do quá trình hình thành đặc biệt của nhà nước này.[28] Các dân tộc láng giềng cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển quân sự của Hãn quốc Kim Trướng. Kỵ binh vẫn là lực lượng áp đảo của quân đội Hãn quốc Kim Trướng, sử dụng chiến thuật chiến tranh truyền thống với những đơn vị cung thủ cơ động trong chiến đấu. Kỵ binh chủ chốt là các toán vũ trang hạng nặng, bao gồm thành phần quý tộc, những người bảo vệ Hãn của Hãn quốc. Ngoài các chiến binh của Hãn quốc, hãn còn tuyển mộ binh lính của các dân tộc bị chinh phục, cũng như lính đánh thuê từ vùng Volga, Crimea và Bắc Kavkaz. Vũ khí chính của quân Hãn quốc Kim Trướng vẫn là cung tên với kỹ năng bắn cung điêu luyện. Quân trang bị giáo tham gia cận chiến sau loạt bắn tên đầu tiên. Các vũ khí khác phổ biến nhất là gươm và kiếm. Loại vũ khí nghiền nát cũng phổ biến rộng rãi: chùy,...

Những thay đổi về trang bị cũng như thay đổi cấu trúc của quân đội đã diễn ra. Binh lính bắt đầu sử dụng áo giáp lưới và sau đó là áo giáp vòng. Bộ giáp phổ biến nhất là "Khatangu Degel", được gia cố từ bên trong bằng các tấm kim loại (kuyak). Mặc dù vậy, quân Hãn quốc vẫn tiếp tục sử dụng trát giáp. Họ sử dụng áo giáp kiểu Mông Cổ và kiểu của các địa phương khác. Từ cuối thế kỷ 14, người Mông Cổ đã sử dụng súng.[30] Họ cũng bắt đầu sử dụng công sự chiến tranh kiên cố. Trong một trận dã chiến, quân Hãn quốc cũng sử dụng một số trang bị quân sự khác, đặc biệt là nỏ.

Nhà Nguyên

sửa
 
Chiến thuyền Mông Cổ của nhà Nguyên. Tranh cuộn Nhật Bản về cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Thế kỷ 13
 
Áo giáp của chiến binh Mông Cổ thời Nguyên trong cuộc xâm lược Nhật Bản

Quân Mông Cổ thời kỳ Đế quốc Nguyên đã phát triển dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc. Người Mông Cổ lần đầu tiên chiếm được một hạm đội, bắt giữ tàu chiến Trung Quốc. Thủy quân đã tuyển mộ nhiều binh sĩ Trung Quốc và những người phục vụ chủ yếu ban đầu trong bộ binh. Mặc dù vậy, lực lượng Mông Cổ vẫn là quân đội chính yếu của những người cai trị Mông Cổ. Lý do chính cho việc huy động sự tham gia đông đảo của người dân địa phương Trung Quốc vào phục vụ quân đội Mông Cổ là do người Mông Cổ thích nghi kém khi chiến đấu trên địa hình gồ ghề, cũng như không thạo việc bao vây các thành trì kiên cố của Trung Quốc.[36]

Quân Nguyên cũng bao gồm quân của các bộ lạc liên quan đến quân Mông Cổ do chỉ huy riêng của họ lãnh đạo. Ngoài người Trung Quốc, Hàn Quốc, Nữ Chân, Khiết Đan và Tây Tạng cũng phục vụ trong quân đội Mông Cổ. Trên thực tế, tù binh Tống phục vụ chủ yếu trong bộ binh và pháo binh và là những đơn vị ít được tin cậy nhất của quân Nguyên. Quân đội Nhà Nguyên cũng bao gồm lính đánh thuê bị bắt, là các binh lính trước đây phục vụ cho quân đội nhà Tống.

Quân Mông Cổ đã bị suy yếu rất nhiều qua các chiến dịch xâm lược, cũng như do nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại quân xâm lược. Người Mông Cổ cũng rơi vào tình trạng cần ngựa chiến nghiêm trọng, vì họ không thể nuôi những đàn lớn ở Trung Quốc vì vậy buộc phải mua ngựa. Hoàn cảnh này làm suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự của Mông Cổ tại Trung Quốc. Tuy nhiên, người Mông Cổ vẫn là một thế lực đáng gờm đối với đối thủ của họ. Vệ binh hoàng gia được đóng tại kinh đô. Đến năm 1352, khoảng 100.000 binh sĩ phục vụ trong vệ binh Mông Cổ.[36] Quân đội nhà Nguyên tiếp tục duy trì hệ thống thập phân, tuy nhiên, số lượng chiến binh Mông Cổ trong một đơn vị vạn hộ dao động từ 3.000 đến 7.000, thậm chí chỉ vài ngàn là vô cùng nhỏ.

Quân đội Thiếp Mộc Nhi của Nhà Timur

sửa
 
Thiếp Mộc Nhi và các chiến binh của ông. Tranh nhỏ

Quân đội Thiếp Mộc Nhi ở khu vực Trung Á có tổ chức khá tốt và luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Thời kỳ chinh phạt của Thiếp Mộc Nhi đánh dấu sự nở rộ cao nhất trong phát triển nền quân sự của những người du mục Trung Á.[37] Dựa vào kinh nghiệm dày dặn của những người tiền nhiệm, Thiếp Mộc Nhi đã xây dựng một đội quân hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu cho phép ông ta giành được những chiến thắng rực rỡ trên chiến trường trước các đối thủ của mình. Đội quân này là là một đạo quân đa sắc tộc, nòng cốt là các chiến binh du mục người Thổ Nhĩ Kỳ - Mông Cổ. Quân đội Thiếp Mộc Nhi được chia thành kỵ binh và bộ binh, có vai trò tăng lên rất nhiều vào đầu thế kỷ 14-15. Tuy nhiên, chủ lực của quân đội là các đơn vị kỵ binh du mục, "xương sống" bao gồm các đơn vị kỵ binh giáp nặng vô cùng tinh nhuệ, cũng như các đơn vị vệ sĩ Tamerlan.[38] Bộ binh thường đóng vai trò hỗ trợ, nhưng cần thiết trong cuộc bao vây pháo đài. Hầu hết bộ binh được trang bị vũ khí nhẹ, chủ yếu là cung thủ, tuy nhiên, bộ binh của họ cũng có các toán tấn công vũ trang mạnh.

Ngoài lực lượng chính của quân đội (kỵ binh nặng, kỵ binh nhẹ và bộ binh) trong quân đội của Thiếp Mộc Nhi còn có các kiểu lính khác, công nhân, kỹ sư và các chuyên gia vũ khí khác, cũng như có các đơn vị bộ binh đặc biệt, chuyên chiến đấu ở vùng núi (họ được tuyển chọn từ cư dân sống trong các ngôi làng trên núi).[39] Tổ chức của quân đội Thiếp Mộc Nhi tương tự với tổ chức thập phân của Thành Cát Tư Hãn, nhưng có một số thay đổi (ví dụ, có các đơn vị từ 50 đến 300 người được gọi là Hồi koshun, số lượng đơn vị lớn hơn là kulul thì không ổn định lắm, thường biến động về số quân).[30]

Vũ khí chính của kỵ binh hạng nhẹ giống như bộ binh là một cây cung. Kỵ binh hạng nhẹ cũng sử dụng gươm hoặc kiếm và rìu. Kỵ binh nặng được vũ trang mạnh mẽ, được trang bị áo giáp (áo giáp phổ biến nhất được gia cố bằng các tấm kim loại), mũ sắt đội đầu và trang bị gươm hoặc kiếm (ngoài cung tên, sử dụng phổ biến khắp các đơn vị). Những người lính bộ binh nhẹ được trang bị cung tên, những người lính bộ binh hạng nặng dùng kiếm, rìu và chùy và được bảo vệ bởi giáp, mũ và khiên.[30]

Hãn quốc Y Nhi

sửa

Hãn quốc Y Nhi, hệ thống quân sự Mông Cổ đã trải qua một số thay đổi đáng kể làm ảnh hưởng đến tổ chức quân đội nước này. Giới quý tộc người du mục Thổ Nhĩ Kỳ - Mông Cổ, vốn là thành phần quan trọng của bộ máy nhà nước nhận được những mảnh đất rộng dựa trên cơ sở thuế. Ban đầu, những người lính dân quân bình thường không nhận được lợi tức từ thuế. Các khoản chi trả cho họ bao gồm quân phục, thức ăn, thức ăn gia súc, tiền.[40] Về sau, dân quân giống như các chỉ huy của họ, những người xuất thân từ giới quý tộc du mục Thổ - Mông, cũng bắt đầu nhận được chu cấp đất đai. Hệ thống sở hữu này hợp pháp hoá bởi Nghị định của Hãn Gazan vào năm 1303. Kể từ khi việc chu cấp đất đai được ban hành đã dẫn đến việc thu ngân sách giảm và suy yếu bộ máy nhà nước. Quân đội của Hãn, ngoài đội hình Mông Cổ chủ yếu, còn bao gồm quân đội Armenia và Gruzia đồng minh, cũng như dân quân được tuyển mộ từ cư dân địa phương. Hệ thống thập phân truyền thống tương tự với tổ chức thị tộc của các bộ lạc Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ. Hệ thống quân sự của nhà nước Hãn quốc Y Nhi cho thấy sự yếu kém của nó trong các cuộc chiến với Mamluk, và khu vực Tây Nam Á.

Ảnh hưởng đến sự phát triển quân sự khu vực Á-Âu

sửa

Truyền thống lâu dài của nền quân sự Mông Cổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển quân sự của nhiều dân tộc. Do đó, loại vũ khí của Mông Cổ (áo giáp ngựa dùng trong quân đội Galicia–Volhynia, cũng như quân đội Tatar, được mô tả[41] vào năm 1248 tương tự như mô tả của Giovanni da Pian del Carpine) đã được các binh sĩ Nga sử dụng thành công trong các cuộc chiến tranh chống lại quân đội các đối thủ phương Tây. Do hậu quả cuộc xâm lược của người Mông Cổ ở Nga, các đơn vị kỵ binh hạng nặng chuyên tấn công trực tiếp bằng vũ khí cầm tay dần chuyển sang đội hình tấn công xạ tiễn[42] (được hồi sinh trên cơ sở sử dụng lực lượng vũ trang bán thường xuyên vào đầu thế kỷ 16, sau sự sụp đổ của ách thống trị Mông Cổ-Tatar). Quân đội Nga một lần nữa buộc phải chiến đấu bằng giáo và kiếm bên cạnh việc bắn bằng cung tên. Dưới ảnh hưởng của Mông Cổ, các chiến thuật quân sự đã thay đổi rất nhiều: lính Nga bắt đầu ưu tiên chiến đấu tránh cận chiến (cung thủ) và tác chiến linh hoạt từ khoảng cách xa, họ cũng chú ý nhiều đến hoạt động tình báo và bảo vệ.[43] Ngoài ra, quân Nga bắt đầu loại bỏ truy kích quân thù vì điều này có thể gây nguy hiểm cho một chiến thắng chung, đó là một trong những lý do cho thất bại tại Kalka (xem Trận sông Vozhe, Trận Kulikovo). Quân đội của Nhà nước Moscow được xây dựng một phần dựa trên các nguyên tắc của nghệ thuật quân sự Mông Cổ.[44] Vào cuối thế kỷ 14, các chiến binh Nga thường sử dụng vũ khí[45] ở một số khía cạnh hoàn hảo hơn[28] so với các mẫu tương tự Đông Âu. Trang bị của ngựa chiến cũng đã thay đổi: những chiếc yên ngựa cao và nhẹ đã xuất hiện, những chiếc cựa được thay thế bằng một cây roi.

Trang bị của Mông Cổ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vũ khí và áo giáp của Trung Quốc, Iran, khu vực Trung Á, cũng như nhiều bộ lạc du mục sống trên lãnh thổ của nước Nga hiện đại.[46] Các phương pháp chiến tranh hiệu quả từng được sử dụng bởi người Mông Cổ đã được các dân tộc du mục khác vay mượn. Người Mông Cổ có ảnh hưởng mạnh nhất đến sử dụng vũ khí và tổ chức quân sự của các dân tộc thuộc nhóm nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và nói tiếng Mông Cổ.

Ghi chú

sửa
  1. ^ ngựa Mông Cổ có chiều cao tính đến vai khoảng 127 cm và nặng dưới 300 kg.[22] Một con ngựa chất đầy hàng di chuyển dọc theo một đồng bằng có thể mang tải trọng bằng khoảng 1/3 trọng lượng của nó.[23]

    Tốc độ di chuyển trung bình của một đoàn lữ hành trên một con đường tốt là từ 4 đến 4,5 km mỗi giờ; di chuyển ban ngày thường là 20-30 km, nhưng có thể đạt đến 35-50 km; lượng hàng lớn mang theo khiến lưng ngựa bị cọ xát mạnh, đòi hỏi chúng phải được nghỉ ngơi thường xuyên hơn.[24]

  2. ^ Khi chuẩn bị thức ăn chăn nuôi ngựa công việc chăm sóc nặng nhọc này cần được tập trung, xây dựng cả các khu nhà ăn để trữ cỏ và cho ngựa ăn chỗ cạnh bên.[25]
  3. ^ Vào mùa hè, việc phòng thủ với công sự cố định là hiệu quả nhất, tuy vậy những người du mục cho đến thế kỷ 13 bao gồm Hãn quốc Kim Trướng trong phần lớn các trường hợp họ lại chọn tấn công vào mùa hè

Tham khảo

sửa
  1. ^ a b Е Лун-ли История государства киданей
  2. ^ Горелик М. В. Ранний монгольский доспех (IX — первая половина XIV в.) Lưu trữ 2009-09-07 tại Wayback Machine
  3. ^ a b «Аньчунь Гурунь» — летописи о великих чжурчжэнях
  4. ^ Разин Е. А. (1999), История военного искусства VI-XVI вв, Sankt Peterburg, Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015
  5. ^ a b c d e f g Г. В. Вернадский «Монголы и Русь»
  6. ^ Franke, Herbert, Denis Twitchett and John King Fairbank. (1994) The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 710–1368. Cambridge University Press. tr. 345.
  7. ^ Vietze, Wörterbuch Mongolisch - Deutsch, VEB 1988
  8. ^ The Silk Road And The Korean Language
  9. ^ a b c Фрагменты Ясы, реконструированные на основании разных источников
  10. ^ Сокровенное сказание монголов Lưu trữ 2013-01-19 tại Wayback Machine / Перевод С. А. Козина. tr 224.
  11. ^ a b c d e «Армия Монгольской империи» С. Тарнбул Издательство «АСТ» ISBN 5-17-019323-8
  12. ^ Доманин А. А. Монгольская империя Чингизидов. Чингисхан и его преемники. — М., 2005. tr 220—221
  13. ^ Марко Поло Книга о разнообразии мира
  14. ^ [[Гильом де Рубрук]] Путешествие в Восточные страны”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2020.
  15. ^ Монголов / Путешествие в восточные страны, СПб.: 1911
  16. ^ Н. М. Карамзин Записка о древней и новой России в её политическом и гражданском отношениях
  17. ^ М. Карамзин История Государства Российского[liên kết hỏng] (liên kết không có sẵn)
  18. ^ Эренжен Хара-Даван «Чингисхан как полководец и его наследие»
  19. ^ Рашид ад-Дин. (1952), Сборник летописей, М., Л., tr. 266
  20. ^ Деревья сумао, из смолы которых производится этот лак, на территории Монголии не произрастают [1] Lưu trữ 2013-10-14 tại Wayback Machine
  21. ^ Монгольская порода
  22. ^ Вячеслав Долбе (2012). “Лошади степных пород: физические характеристики, особенности, тебеневка и корма” (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2017.
  23. ^ Татьяна Тобольская (4 tháng 12 năm 2008). “Использование лошадей под вьюком”. logovo.info (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2017.
  24. ^ Доктор геолого-минералогических наук, профессор С.В. Обручев (1949), Справочник путешественника и краеведа, Географгиз, tr. 808, ISBN 978-5-458-47711-6
  25. ^ Е. ЗАБОРОВА, кандидат сельскохозяйственных наук. “Как кормить и поить лошадь”. Конный дворик (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2017.
  26. ^ a b «Мир истории. Русские земли в XIII—XV веках», Греков И. Б., Шахмагонов Ф. Ф., «Молодая Гвардия», М., 1988. ISBN 5-235-00702-6
  27. ^ «Небесные кони»
  28. ^ a b c М. Горелик Куликовская битва 1380 г.: русский и золотоордынский воины
  29. ^ Плано Карпини История монголов перевод А. И. Маленина
  30. ^ a b c d e М. В. Горелик Армии монголо-татар X—XIV вв. Воинское искусство, оружие, снаряжение М., 2002
  31. ^ a b Храпачевский Р. П. Осадные технологии монголов
  32. ^ Ю. С. Худяков Вооружение центрально-азиатских кочевников в эпоху раннего и развитого средневековья — Новосибирск, «Наука», 1991
  33. ^ Rashid-al-Din Hamadani Сборник летописей Т. 3
  34. ^ “Чжао Хун «Мэн-да-бэй-лу (Полное описание монголо-татар)»”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  35. ^ Храпачевский Р. П. (2005), Военная держава Чингисхана, М., tr. 241
  36. ^ a b C. J. Peers, D. Sque Medieval Chinese Armies 1260—1520. — Osprey Publishing. — (Men-at-Arms). — ISBN 1-85532-254-4
  37. ^ Л. А. Бобров, Ю. С. Худяков Защитное вооружение среднеазиатского воина эпохи позднего Средневековья Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine
  38. ^ D. Nicolle, A. McBride The Age of Tamerlane. — Osprey Publishing, 1990. — (Men-at-Arms). — ISBN 0-85045-949-4
  39. ^ Иванин М. «О военном искусстве и завоеваниях монголо-татар и среднеазиатских народов при Чингисхане и Тамерлане» (отрывки из книги)”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2020.
  40. ^ История Ирана с древнейших времён до конца XVIII века — Л.: Издательство Ленинградского университета, 1958. — 390 с
  41. ^ Жизнеописание Даниила Галицкого
  42. ^ «Связь времён», Нестеров Ф. Ф. (рец. ДИН, проф. Каргалов В. В., М, «Молодая гвардия», 1984)
  43. ^ Свечин А. А. Эволюция военного искусства. part 1.
  44. ^ В. Шпаковский, Д. Николле «Русская армия 1250—1500» — М., «АСТ», 2004
  45. ^ Щербаков А., Дзысь И. Куликовская битва 1380 г.. — М.:. — 80 с. — (Bảo tàng quân đội). — 5000 bản sao. — ISBN 5-94038-015-8
  46. ^ Робинсон Р. Доспехи народов Востока. История оборонительного вооружения /пер. с англ. С. Фёдорава — М.: ЗАО Центрполиграф, 2006. — 280 с.

Tài liệu tham khảo

sửa

Nguồn

Văn học

  • C. J. Peers, D. Sque., Medieval Chinese Armies 1260—1520, Men-at-Arms, Osprey Publishing, ISBN 1-85532-254-4
  • D. Nicolle, A. McBride. (1990), The Age of Tamerlane, Men-at-Arms, Osprey Publishing, ISBN 0-85045-949-4

Liên kết ngoài

sửa

  Tư liệu liên quan tới Army of the Mongol Empire tại Wikimedia Commons