Phan Thành Tài

Nhà yêu nước Việt Nam thời Pháp thuộc.

Phan Thành Tài (1878 - 1916), một nhà yêu nước Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Và là một trong những yếu nhân của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội (thường gọi là cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân) tháng 5 năm 1916.

Phan Thành Tài
Tên khácBí hiệu là Trúc Sơn
Nhân dân hay gọi là ông học Tài
Tên hiệuĐạt Đức
Binh nghiệp
Phục vụPhong trào Duy Tân
Khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội
Thông tin cá nhân
Sinh1869-1916[1] Tại làng Bảo An, nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Mất
Ngày mất
ngày 9 tháng 6 năm 1916, hưởng dương 48 tuổi.
Nơi mất
Chợ Cũi (Vĩnh Điện, Điện Bàn, Quảng Nam).
An nghỉMộ ông Phan Thành Tài hiện ở đầu cầu Vĩnh Điện ở gần Quốc lộ 1.
Giới tínhnam
Gia quyến
Thân phụ
Phan Thành Tích (Cử nhân khoa Mậu Tý, 1888, từng là Giáo thọ phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận).
Thân mẫu
Lê Thị Truyền
Phu nhân
Bùi Thị Hậu (1881-1967)
Hậu duệ
7 người con, 4 trai, 3 gái.
Học vấnNho học
Tốt nghiệp bậc Trung học (chữ quốc ngữtiếng Pháp) vào năm 1899
Chức quan
  • Thông ngôn tại dinh Tổng đốc Bình Phú (Bình Định – Phú Yên) dưới thời Tổng đốc Dương Lâm.
  • Thông Phán tại Bác Cổ học Viện Nam Kỳ tại Sài Gòn.
Nghề nghiệpthầy giáo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng
Dân tộcKinh
Quốc giaViệt Nam
Quốc tịchViệt Nam
Thời kỳNguyễn

Tóm tắt tiểu sử

sửa

Phan Thành Tài là người làng Bảo An; nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Mặc dù xuất thân trong một gia đình nho học, nhưng ông theo Tây học khá sớm. Khi trưởng thành, ông từng làm thầy giáo dạy Pháp văn [2] tại các trường nghĩa thục như Diên Phong, Quảng Cái...

Từ năm 1900-1904, ông tham gia tích cực phong trào Duy Tân tại Quảng Nam.

Năm 1908, phong trào này bị khủng bố trắng, nhiều các chiến sĩ bị thực dân Pháp lưu đày đi Lao Bảo, Côn Đảo. Lúc ấy, ông cũng bị bắt giam tại nhà lao Quảng NamHội An. Đến khi ra tù, ông sống ẩn dật ở quê nhà một thời gian.

Sau đó, ông cùng với Thái PhiênTrần Cao Vân tham gia tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội tại miền Trung. Đầu năm 1916, Thái Phiên và Trần Cao Vân gặp vua Duy Tân để cùng mưu việc lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Theo kế hoạch, cuộc khởi nghĩa sẽ diễn ra vào ngày 3 tháng 5 năm 1916 nhưng bị bại lộ. Vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân...đều bị quân Pháp bắt; còn Phan Thành Tài thì chạy thoát được.

Ở ẩn tại miền Hiên, Giằng (hai huyện xưa) thuộc miền Tây Quảng Nam một thời gian ngắn, ông bị thực dân Pháp bắt, đưa về xử chém tại chợ Cũi (Vĩnh Điện, Điện Bàn, Quảng Nam) ngày 9 tháng 6 năm 1916, hưởng dương 48 tuổi. (Nếu chợ Cũi thì ở gần cầu Mống xã Điện Phương!. Tại đây triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp cũng đã xử chém ngang lưng và cắt đầu chí sĩ Đỗ Đăng Xuân tục gọi Tú Xuân người làng Bàn Lãnh [nay là thôn Đông Lãnh xã Điện Trung thị xã Điện Bàn] cắm tại chợ Cũi khi ông tham gia Nghĩa hội Quảng Nam của chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu (tục gọi Hường Hiệu).

Mộ ông Phan Thành Tài hiện ở đầu cầu Vĩnh Điện ở gần Quốc lộ 1.

Hai bài thơ nổi tiếng

sửa

Trong thời gian nằm trong nhà lao Vĩnh Điện, ông biết trước sau bọn giặc sẽ giết mình, nên đã viết lại bài thơ cho vợ con và cho các anh em, đồng bào, đồng chí khẳng định ý chí đấu tranh bất khuất của mình. Dưới đây là một bài thơ ông gởi cho vợ con.

Con còn bụng mẹ cha đã mất

Con bước vào đời nước đã suy

Thù nhà, nhục nước con nên biết

Chẳng đội trời chung chữ ấy ghi!

Cha muốn gây ra đoá tự do

Máu đem làm nước, xác làm tro

Vun cho hoa nở, hoa chưa nở

Con hãy vì cha, thế mặt lo...

Trước lúc vĩnh viễn ra đi, với lòng yêu nước, thương dân ông đã có bài thơ nhắn nhủ với đồng bào, đồng chí:

Nay nói với anh em lớn nhỏ

Có chịu khó mới nên khôn

Phải lo cho hết việc nước non

Tiến bộ hề tiến bộ

Mau mau theo trái đất lăn tròn

Dặn anh, dặn cháu, dặn con

Còn trời, còn nước, còn non

Nước Nam là nước Nam ta.

Thương tiếc và ghi công

sửa

Nghe tin Phan Thành Tài và Thái Phiên bị xử chém, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ khóc hai ông như sau:

Phiên âm Hán-Việt:
Khảng bả tây văn khứ tác nô,
Bất thành cam tự đoạn đầu lô.
Quốc trung Tây học nhân như tức,
Thanh dạ môn tâm quý tử vô.
Nghĩa là:
Âu học không đem rút của người,
Chả thành đời sống vứt như chơi.
Kìa phường học mới đông như kiến,
Đêm hỏi lòng chăng có hổ ngươi!

Ghi nhận công lao, tên Phan Thành Tài đã được dùng để đặt tên cho một đường phố và một trường Trung học Phổ thông tại thành phố Đà Nẵng.

Từ tháng 12 năm 2011, tại thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có đường phố mang tên ông.[3]

Về người vợ của ông

sửa

Vợ Phan Thành Tài là bà Bùi Thị Hậu (1881-1967); là người ở làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Là một người phụ nữ yêu nước và đảm đang, bà đã hết sức cùng chồng lo việc cứu nước. Theo kế hoạch, bà phụ trách việc dệt vải rằn may đồng phục cho nghĩa quân. Việc khởi nghĩa không thành, khiến chồng bà phải thọ tử khi bà mới 35 tuổi. Song bà vẫn ở vậy nuôi 7 người con ăn học cho đến khi thành tài.

Năm Đinh Mùi (1967), bà mất, thọ 86 tuổi, được chôn cất tại đất thánh ở Đa Kao (Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh) [4].

Sách tham khảo

sửa
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.

Chú thích

sửa
  1. ^ Chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (mục từ: "Phan Thành Tài", tr. 797)
  2. ^ Chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 797). Theo trang web Họ Phan, ngoài dạy môn Pháp văn, ông còn dạy toán pháp và các môn tân học khác.
  3. ^ Nghị quyết số 29/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh Quảng Nam.
  4. ^ Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ "Bùi Thị Hậu", tr. 57.