Umimachi Diary (phim)
Umimachi Diary (海街diary Em gái bé nhỏ) là phim điện ảnh Nhật Bản 2015 do Hirokazu Koreeda đạo diễn, với sự góp mặt của Haruka Ayase, Masami Nagasawa, Kaho và Suzu Hirose. Bộ phim là câu chuyện kể về ba chị em cùng chung sống ở Kamakura, và mời cô em gái cùng cha khác mẹ 14 tuổi về chung sống sau khi người cha chung của họ mất. Phim dựa trên loạt truyện manga cùng tên Umimachi Diary của tác giả Akimi Yoshida.[2] Phim được đề cử tham gia giải thưởng Palme d'Or tại Liên hoan phim Cành cọ vàng 2015.[3][4]
Umimachi Diary (Em gái bé nhỏ) | |
---|---|
Áp phích phim tại Nhật Bản | |
Đạo diễn | Hirokazu Koreeda |
Kịch bản | Hirokazu Koreeda |
Dựa trên | Umimachi Diary của Akimi Yoshida |
Sản xuất |
|
Diễn viên | Haruka Ayase Masami Nagasawa Kaho Suzu Hirose |
Quay phim | Mikiya Takimoto |
Dựng phim | Hirokazu Koreeda |
Âm nhạc | Yoko Kanno |
Phát hành |
|
Công chiếu | |
Thời lượng | 126 phút |
Quốc gia | Nhật Bản |
Ngôn ngữ | Tiếng Nhật |
Doanh thu | 1,55 tỉ yên Nhật[1] |
Cốt truyện
sửaBa chị em gái Sachi Kouda (Haruka Ayase) 29 tuổi, Yoshino Kouda (Masami Nagasawa) 22 tuổi, và Chika Kouda (Kaho) 19 tuổi cùng sống chung trong một ngôi nhà cũ ở Kamakura, Nhật Bản do bà để lại.
Một ngày nọ, họ nhận được tin về cái chết của bố mình. Bố mẹ 3 chị em đã ly hôn từ khi họ còn nhỏ, và người bố đã rời đi. Cả ba người đã không gặp ông trong suốt 15 năm. Khi nghe tin ông mất, mấy chị em về dự đám tang bố, và tại đây, họ gặp được cô em gái cùng cha khác mẹ của mình là Suzu Asano (Suzu Hirose). Cô bé đã 14 tuổi và không còn ai chăm sóc. Vào lúc này, chị cả Sachi quyết định mời Suzu về sống chung cùng họ.[5]
Diễn viên
sửa- Haruka Ayase trong vai Sachi Kōda
- Masami Nagasawa trong vai Yoshino Kōda
- Kaho trong vai Chika Kōda
- Suzu Hirose trong vai Suzu Asano
- Ryo Kase trong vai Sakashita
- Kirin Kiki trong vai Fumiyo Kikuchi
- Lily Franky trong vai Sen-ichi Fukuda
- Jun Fubuki trong vai Sachiko Ninomiya
- Shinichi Tsutsumi trong vai Kazuya Shiina
- Shinobu Otake trong vai Miyako Sasaki
Sản xuất
sửaPhim được sản xuất bởi Fuji TV, Shogakukan, Toho và Gaga Corporation.[6] Phim bắt đầu bấm máy từ 2014.[7]
Công chiếu
sửaPhim được công chiếu tại Nhật Bản từ ngày 13 tháng 6 năm 2015.[8] Phim cũng được công chiếu ở Luân Đôn, Anh vào ngày 14 tháng 10 năm 2015 tại Liên hoan phim BFI Luân Đôn [9]
Doanh thu
sửaPhim đạt doanh thu 1,55 tỉ yên Nhật tại các phòng vé ở Nhật Bản.[1]
Tiếp nhận
sửaRotten Tomatoes tổng hợp có 93% ủng hộ cho Umimachi Diary, dựa trên 42 bình chọn.[10] Phim cũng đạt được 68/100 trên Metacritic.[11] và 90/100 trên Asianwiki dựa trên 165 bình chọn.[5]
Diễn xuất của các diễn viên cũng nhận được đánh giá tích cực từ giới phê bình. Bốn nữ diễn viên trong vai chị em đều nhận được giải hoặc đề cử tại Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 39. (Haruka Ayase được đề cử cho hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, Masami Nagasawa và Kaho được đề cử cho hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất và Suzu Hirose giành được giải Diễn viên trẻ của năm).
Phim cũng giành được giải thưởng được khán giả yêu thích tại liên hoan phim quốc tế San Sebastián.
Liên hoan phim
sửaNăm | Liên hoan phim | Hạng mục |
---|---|---|
2015 | Liên hoan phim Cành cọ vàng 2015 lần thứ 68 | Phim công chiếu trên thế giới |
Liên hoan phim quốc tế New Horizons 2015 lần thứ 15 | Panorama | |
Liên hoan phim quốc tế Toronto 2015 lần thứ 40 | Phim công chiếu ở Bắc Mỹ | |
Liên hoan phim quốc tế Busan 2015 lần thứ 20 | Trình diễn Gala | |
Liên hoan phim quốc tế Tokyo 2015 lần thứ 28 | Nhật Bản nay |
Giải thưởng
sửaNăm | Giải thưởng | Hạng mục | Người được đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2016 | Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 39 | Phim điện ảnh xuất sắc của năm | Đoạt giải | |
Đạo diễn của năm | Hirokazu Koreeda | Đoạt giải | ||
Diễn viên trẻ của năm | Suzu Hirose | Đoạt giải | ||
Quay phim xuất sắc nhất | Mikiya Takimoto | Đoạt giải | ||
Đạo diễn ánh sáng xuất sắc nhất | Norikiyo Fujii | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Haruka Ayase | Đề cử | ||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Kaho | Đề cử | ||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Masami Nagasawa | Đề cử |
Tham khảo
sửa- ^ a b Kevin Ma (ngày 30 tháng 7 năm 2015). “Chiến thắng vang dội trong hai tuần đầu tiên công chiếu tại Nhật Bản”. Film Business Asia. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2015.
- ^ Ma, Kevin (ngày 28 tháng 5 năm 2014). “Hirokazu Koreeda chuyển thể "Nhật ký Kamakura"”. Film Business Asia (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Đề cử chính thức 2015”. Cannes (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Thông tin công chiếu”. Festival de Cannes (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2015.
- ^ a b “Umimachi Diary (Asianwiki)” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
- ^ Noh, Jean (ngày 23 tháng 3 năm 2015). “Filmart 2015: Trang nhất - Nhật Bản”. Screen International. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Ngôi sao điện ảnh Haruka Ayase trong phim Umimachi Diary của Hirokazu Koreeda”. Anime News Network (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Our Little Sister”. gaga.co.jp (bằng tiếng Nhật). Gaga Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Liên hoan phim BFI Luân Đôn 2015: 30 đề cử” (bằng tiếng Anh). www.bfi.org.uk. ngày 13 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Our Little Sister (2015) trên RT” (bằng tiếng Anh). Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Đánh giá Our Little Sister” (bằng tiếng Anh). Metacritic. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016.
Đường dẫn ngoài
sửa- Website chính thức (tiếng Nhật)
- 海街diary(2015) tại allcinema (tiếng Nhật)
- 海街diary tại KINENOTE (tiếng Nhật)
- Our Little Sister trên Internet Movie Database