Nilüfer Verdi
Nilüfer Ruacan Verdi (sinh năm 1956) là một nghệ sĩ piano jazz người Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời là nữ nghệ sĩ biểu diễn piano jazz đầu tiên tại quốc gia này.
Nilüfer Verdi | |
---|---|
Nilüfer Verdi vào tháng 6 năm 2018 | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Nilüfer Ruacan Verdi |
Sinh | 1956 (67–68 tuổi) Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ |
Thể loại | Jazz |
Nghề nghiệp | Nhạc sĩ |
Nhạc cụ | Piano |
Cuộc sống cá nhân
sửaNilüfer Verdi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc ở Istanbul vào năm 1956.[1][2] Cha bà là Nejat Verdi, một nghệ sĩ chơi nhạc cụ bộ gõ có tổ tiên là người di cư từ đảo Crete,[3] Mẹ bà, Liselotte "Lilo" Auer Verdi là một họa sĩ. Anh trai Murat Verdi của bà cũng là nghệ sĩ trống.[1][4]
Verdi bắt đầu quan tâm đến âm nhạc từ khi con bé. Bà bắt đầu theo học piano cho đến những năm trung học.[4] Sau khi theo học Özel Eseniş Lisesi, một trường trung học tư thục ở Arnavutköy, Istanbul,[5] Verdi chuyển đến Hoa Kỳ để tiếp tục học âm nhạc trong đó có piano, hòa âm, biên soạn âm nhạc và sáng tác âm nhạc.[2] Bà được học tại trường Juilliard ở thành phố New York,[6] và được đào tạo bởi các nghệ sĩ piano nổi tiếng của Mỹ bao gồm Jack Reilly tại The New School ở Thành phố New York, và Ray Santisi, Bob Winter và Billie Pierce tại Đại học Âm nhạc Berklee ở Boston.[1][2][4]
Verdi kết hôn với nghệ sĩ guitar jazz Neşet Ruacan ở thành phố New York năm 1978 sau khi họ gặp nhau ở Istanbul.[7] Năm 1979, bà sinh người con trai duy nhất là Nedim Ruacan,[8] người về sau trở thành nghệ sĩ bộ gõ.[6] Bà ly hôn chồng vào năm 1999.[7]
Sự nghiệp
sửaTheo một số nguồn tin, Nilüfer Verdi được xem là nữ nghệ sĩ biểu diễn piano jazz đầu tiên tại Thổ Nhĩ Kỳ.[2][9][10][11] Bà đã biểu diễn với nhiều nhạc sĩ trong và ngoài nước tại các câu lạc bộ và lễ hội nhạc jazz ở Thổ Nhĩ Kỳ và cả nước ngoài, bao gồm cả Akbank,[12] Yapı Kredi, Bilsak, Boğaziçi, Kuşadası, Istanbul (2009),[9] Afyonkarahisar (2007)[13] và Houston, CanAm và Port Heron. Verdi cũng từng biểu diễn trong chuyến lưu diễn kéo dài 28 ngày ở Trung Quốc.[2]
Năm 1997, Verdi phát hành album CD đầu tiên mang tên Mânâ, một album biểu diễn nhạc cụ jazz thông qua hãng thu âm Ada Müzik. Verdi đã sáng tác bảy trong số chín bản nhạc của album, trong đó bà thu âm piano với chồng mình là Neşet Ruacan chơi guitar, John Ormondon chơi guitar bass và Ari Hoenig chơi trống.[2][4][14]
Album thứ hai của Verdi, İZhar được phát hành bởi A.K. Müzik vào năm 2007. Chín trong số mười tác phẩm là nhạc không lời trong khi tác phẩm cuối cùng của album "Unutmayın" được viết để tưởng nhớ sự ra đi của người cô ruột tên Nükhet Ruacan của con trai bà. Verdi chơi piano và cùng với Kamil Özler chơi guitar, Kağan Yıldız chơi contrebass và con trai bà Nedim Ruacan chơi trống.[2][4][10] Album có một số bản phối khí bao gồm "Kara Toprak" của nhà thơ dân gian Thổ Nhĩ Kỳ şık Veysel (1894–1973), bản ballad năm 1938 "Prelude to a Kiss" của Duke Ellington, "Oggigiorno" của Franco Cerri và "Mrs. Waterlilly" của Kamil Özler.[10]
Năm 2016, Verdi phát hành CD thứ ba, một album gồm sáu tác phẩm mang tên Knidost thông qua hãng thu âm Ada Müzik. Album có sự chuyển soạn của bà về âm nhạc dân gian Thổ Nhĩ Kỳ từ thể loại nhạc türküs từ vùng Tiểu Á,[15] bao gồm Âşık Veysel và Neşet Ertaş (1938–2012) cũng như bài hát dân gian nổi tiếng của Istanbul "Kâtibim", được hát bởi Ülkü Aybala Sunat với Verdi trên phần đệm piano và Apostolos Sideris biểu diễn contrebass.[4][16][17]
Verdi biểu diễn trong ban nhạc Nilüfer Verdi Jazz Trio của riêng bà sáng lập, bao gồm bản thân bà biểu diễn piano với Apostolos Sideris chơi bass và Turgut Alp Bekoğlu chơi trống.[18]
Ý tưởng bình đẳng giới
sửaNilüfer Verdi đã dành dặng tặng hai bản album đầu tiên của mình cho những người phụ nữ.[1][4][10] Bà chứng minh cho quyết định của mình rằng "Trên khắp thế giới, sự phân biệt đối xử tiêu cực đang được áp dụng đối với phụ nữ, điều này là không còn phù hợp với thế kỷ mà chúng ta đang sống. Tôi muốn nhấn mạnh rằng những phước lành của nền văn minh nên dành cho mọi giới tính. Điều này đang thực sự khó khăn để giải thích quan điểm của phụ nữ cho đàn ông."[1] Nhắc đến con trai mình, bà nói rằng "Bản thân tôi không dành cho con trai mình những đặc quyền mà gia đình dành cho con trai. Thằng bé lớn lên giữa những người phụ nữ thành đạt, thể hiện tiếng nói trong đời sống xã hội".[1]
Thu âm
sửaTham khảo
sửa- ^ a b c d e f Akkent, Meral (2012). “Nilüfer Verdi”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b c d e f g “Nilüfer Verdi” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Living Room. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Nilüfer Verdi'den yeni proje: KNIDOST”. Milliyet (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). 17 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b c d e f g Binici, Volkan. “Cazın Özgür Kadını: Nilüfer Verdi” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). wannart. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ Kişioğlu, Erdal (31 tháng 7 năm 2017). “Bir devrin sonu” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Özel Eseniş Lisesi. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Nedim Ruacan”. Istanbul Cymbals. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Neşet Ruacan” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Biyografi. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ “"Bir müzisyen ve bir beyefendi" Neşet Ruacan...” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). cazkolik. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Nardis'te Nilüfer Verdi gecesi”. NTV (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). 9 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b c d e “İzhar” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). AK Müzik. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ Ulusum, Ece (2 tháng 7 năm 2016). “5'te 5 Nilüfer Verdi”. Habertürk (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Akbank Caz Festivali, 30. yaşını 'Dün, Bugün, Yarın' albümüyle kutluyor” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Akbank Sanat. 22 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Nilüfer Verdi 7.Afyonkarahisar Caz Festivali'nde...” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). AK Müzik. 26 tháng 5 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Mana (Mânâ) – Nilüfer Ruacan Verdi” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). cazkolik. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Türkülere caz yorumu”. Milliyet (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). 28 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Nilüfer Verdi'nin yıllardır beklenen albümü "Knidost" yayınlandı” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). cazkolik. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ Ulusoy, Tuncel (8 tháng 8 năm 2016). “Nilüfer Verdi ile Yeni Albümü Knidost Üzerine Bir Tatlı Sohbet”. Jazz Dergisi (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Nilüfer Verdi Caz Trio 5 Mart'ta Erimtan'da” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Sanattan Yansımalar. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.