Nguyễn Ngọc Oánh
Nguyễn Ngọc Oánh (1925-2010), nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Liên quân sau khi Võ bị Quốc gia từ Huế dời về Nam Cao nguyên Trung phần, đặt trên cơ sở có sẵn của trường Võ bị Liên quân Viễn Đông trước đó thuộc Quân đội Pháp. Ra trường, ông được về đơn vị Bộ binh, nhưng chỉ một thời gian ngắn, ông được tuyển dụng sang Quân chủng Không quân.
Nguyễn Ngọc Oánh | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1/1969 – 4/1975 |
Cấp bậc | -Đại tá (1/1969) -Chuẩn tướng (11/1972) |
Tiền nhiệm | -Đại tá Nguyễn Văn Ngọc |
Kế nhiệm | -Sau cùng |
Tham mưu phó tại Bộ tư lệnh Không quân | |
Nhiệm kỳ | 8/1961 – 1/1969 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (10/1960) -Trung tá (6/1962) -Đại tá |
Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang (Lần thứ 2) | |
Nhiệm kỳ | 10/1960 – 8/1961 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Kế nhiệm | -Trung tá Đỗ Khắc Mai |
Trưởng ban trong Bộ chỉ huy Không quân tại Bộ Tổng Tham mưu | |
Nhiệm kỳ | 6/1959 – 10/1960 |
Cấp bậc | -Đại úy (7/1955) |
Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang (Lần đầu tiên) | |
Nhiệm kỳ | 7/1955 – 6/1959 |
Cấp bậc | -Đại úy |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | Tháng 6 năm 1925 Hà Nam, Việt Nam |
Mất | 85 tuổi) California, Hoa Kỳ | 24 tháng 5, 2010 (
Nguyên nhân mất | Tuổi già |
Nơi ở | California, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Alma mater | -Trường Trung học giáo trình Pháp tại Hà Nội Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt Trường Sĩ quan Hoa tiêu Không quân, Nha Trang Trường Sĩ quan Hoa tiêu Marrakech, Maroc, Bắc Phi |
Quê quán | Bắc Kỳ |
Phục vụ trong lực lượng vũ trang | |
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1950-1975 |
Cấp bậc | Chuẩn tướng |
Đơn vị | Không quân |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Tiểu sử & Binh nghiệp
sửaÔng sinh vào tháng 6 năm 1925 trong một gia đình trung nông khá giả tại Duy Tiên, Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Năm 1945, ông tốt nghiệp chương trình Trung học Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Được bổ dụng làm công chức tại Nam Định cho đến khi gia nhập quân đội.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
sửaĐầu năm 1950, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 45/600.051. Theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 1 năm 1950. Ngày 26 tháng 5 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường được chuyển đi phục vụ tại một Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam trong Quân đội Liên hiệp Pháp.
Tháng 3 năm 1952, ông trúng tuyển chuyển sang Quân chủng Không quân, theo học khóa 1 Hoa tiêu Quan sát tại Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang, khai giảng ngày 3 tháng 3 và mãn khóa ngày 25 tháng 12 cùng năm. Đến đầu tháng 3 năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy và được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn 1 Quan sát[1] ở Tân Sơn Nhứt, Chỉ huy phó là Trung úy Từ Bộ Cam.[2] Tháng 5 năm 1954, Phi đoàn 1 Quan sát di chuyển ra Đà Nẵng.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
sửaĐầu năm 1955, Phi đoàn 1 Quan sát lại di chuyển ra Thành nội Huế. Sau thời điểm Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được lệnh bàn giao Phi đoàn 1 Quan sát lại cho Đại úy Trần Phước[3] để lên đường đi du học khóa Huấn luyện viên Hoa tiêu Quan sát tại Căn cứ không quân Marrakech, Maroc (thuộc địa Pháp). Tháng 7 cùng năm mãn khóa về nước ông được thăng cấp Đại úy giữ chức vụ Chỉ huy trưởng đầu tiên Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang (nhân lúc Pháp rút quân và bàn giao cơ sở Huấn luyện này lại cho Không quân Việt Nam). Giữa năm 1959, ông được chuyển về phục vụ trong Bộ Chỉ huy Không quân tại Bộ Tổng tham mưu với chúc vụ là một Trưởng ban.
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1960, ông được thăng cấp Thiếu tá và được tái bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân (thời điểm này, Giám đốc Huấn luyện là Đại úy Dương Thiệu Hùng).[4] Đến tháng 8 năm 1961, một lần nữa ông được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Đỗ Khắc Mai[5] để trở về phục vụ trong Bộ tư lệnh Không quân giữ chức vụ Tham mưu phó. Giữa năm 1962, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.
Đầu năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá và được tín nhiệm lần thứ 3 thay thế Đại tá Nguyễn Văn Ngọc[6] giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang và ở chức vụ này cho đến đầu tháng 4 năm 1975.
Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.
1975
sửaNgày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản ra khỏi Việt Nam. Sau đó sang định cư tại Pasadena, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Ngày 24 tháng 5 năm 2010, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 85 tuổi.
Chú thích
sửa- ^ Phi đoàn 1 Quan sát được thành lập ngày 1/3/1952.
- ^ Trung uý Từ Bộ Cam sinh năm 1926 tại Quảng Nam, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt và khóa 1 Hoa tiêu Quan sát. Sau cùng mang cấp Đại tá.
- ^ Đại uý Trần Phước sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Trường chỉ huy Tham mưu Trung cấp Không quân.
- ^ Đại uý Dương Thiệu Hùng sinh năm 1930 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt và khóa 1 Hoa tiêu Quan sát. Sau cùng là Đại tá Chỉ huy Không đoàn.
- ^ Trung tá Đỗ Khắc Mai tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khóa 1 Hoa tiêu Quan sát. Sau cùng là Đại tá Tư lệnh Không quân (1963). Giải ngũ năm 1965
- ^ Đại tá Nguyễn Văn Ngọc, sinh năm 1931 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, chức vụ sau cùng: Tham mưu phó tại Bộ tư lệnh Không Quân
Tham khảo
sửa- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.