Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (chữ Hán: 中華人民共和國元帥, Zhōnghuā Rénmín Gònghéguó Yuánshuài) là cấp bậc quân sự cao nhất trong lịch sử quân sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Được thành lập năm 1955, cấp bậc này lần đầu tiên và duy nhất cho đến thời điểm hiện tại được phong cho 10 quân nhân cao cấp của Quân Giải phóng Nhân dân Trung QuốcChu Đức, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu, Lưu Bá Thừa, Hạ Long, Trần Nghị, La Vinh Hoàn, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh TrănDiệp Kiếm Anh. Vì vậy, 10 quân nhân này còn được mệnh danh là Khai quốc Nguyên soái hoặc Thập đại Nguyên soái tại Trung Quốc.

Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
中華人民共和國元帥
Cấp hiệu cầu vai
Quốc gia Trung Quốc
Thuộc Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Viết tắtNguyên soái
Hạng5 sao
Mã hàm NATOOF-10
Hình thành1955
Bãi bỏ1988
Nhóm hàmTướng lĩnh
Hàm trênkhông có
Hàm dướiĐại tướng (đã bãi bỏ)
Tương đươngThống tướng

Lược sử

sửa

Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, vấn đề chính quy hóa Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được đặt ra, bao gồm cả chế độ quân hàm. Tuy nhiên, không lâu sau, Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, đề án chế độ quân hàm tạm đình chỉ.

Quá trình tham chiến của Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc (mà thực chất chính là Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc) đã dần bộc lộ những bất cập trong việc không áp dụng chế độ quân hàm. Ví dụ, khi hiệp đồng tác chiến trên chiến trường, phía Triều Tiên áp dụng chế độ quân hàm, nhưng phía Trung Quốc lại không áp dụng, gây nhiều bất tiện trong mối quan hệ chỉ huy. Tháng 8 năm 1951, Bành Đức Hoài, Tư lệnh kiêm Chính ủy của Chí nguyện quân, đã gửi điện tín cho Mao Trạch Đông, nêu rõ việc thực hiện chế độ quân hàm là vấn đề rất cấp thiết. Do đó, tháng 10 cùng năm, Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra chỉ đạo toàn quân thực hiện công tác đánh giá cán bộ. Tháng 4 năm 1952, khi Bành Đức Hoài trở về Trung Quốc điều trị, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định để ông ở lại Bắc Kinh chủ trì công việc hàng ngày của Quân ủy, tập trung vào công tác cải cách quân đội bao gồm đánh giá cấp bậc sĩ quan và xây dựng hệ thống quân hàm. Tháng 11 năm 1952, chế độ quân hàm sơ bộ, mô phỏng hệ thống quân hàm Liên Xô thời bấy giờ, đã được trình lên Quân ủy Trung ương, bao gồm 6 bậc và 20 cấp.

Tháng 2 năm 1955, Hội nghị lần thứ 6 của Thường ủy Nhân đại khóa I đã thông qua và công bố "Điều lệ phục vụ của quân nhân Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc". Theo danh sách nhân sự dự kiến, Mao Trạch Đông được dự định đề xuất cấp bậc Đại nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có vị thế tương đương Đại nguyên soái Liên Xô của Stalin. Cấp bậc tiếp theo là "Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", dự kiến phong cho 11 Phó chủ tịch Quân ủy và 2 lãnh đạo cao cấp của nhà nước là Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện, và Lưu Thiếu Kỳ, Ủy viên trưởng Nhân đại. Mỗi nguyên soái được tặng thưởng Huân chương Bát Nhất hạng Nhất, Huân chương Độc lập Tự do hạng Nhất và Huân chương Giải phóng hạng Nhất, cũng như các chế độ chính sách tương đương lãnh đạo cao cấp của nhà nước. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông đã nêu ý định từ chối cấp bậc Đại nguyên soái. Ông cũng nêu ý kiến chỉ những cán bộ vẫn đang phục vụ tại ngũ mới được phong quân hàm. Theo đó, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, là 2 lãnh đạo cao cấp của nhà nước cũng từ chối nhận quân hàm Nguyên soái. Trường hợp đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, đương kim Tổng tham mưu trưởng, cũng từ chối nhận quân hàm Nguyên soái, dù ông vẫn đang là cán bộ phục vụ tại ngũ. Riêng trường hợp Trần Nghị, tuy đã chuyển sang công tác nhà nước, nhưng vẫn được Chu Ân Lai kiên trì bảo lưu ý định phong quân hàm Nguyên soái. Do đó, số lượng nguyên soái thụ phong dự kiến là 10 người.

Ngày 23 tháng 9 năm 1955, Hội nghị lần thứ 22 của Thường ủy Nhân đại khóa I đã thông qua "Nghị quyết phong quân hàm Nguyên soái nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa". Ngày 27 tháng 9 năm 1955, đại lễ trao quân hàm và huân chương của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được tổ chức tại Hoài Nhân Đường. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trao quân hàm nguyên soái và gắn huân chương cho bảy chỉ huy cao cấp ở Bắc Kinh, gồm Chu Đức, Bành Đức Hoài, Hạ Long, Trần Nghị, La Vinh Hoàn, Từ Hướng TiềnNhiếp Vinh Trăn. Hai người vắng mặt là Lâm Bưu đang chữa bệnh tại Thanh Đảo và Lưu Bá Thừa do bận việc tại Học viện Quân sự. Riêng Diệp Kiếm Anh do đang chủ trì công tác tập trận ở Liêu Đông, nên cấp dưới của ông đã thay mặt nhận quân phục nguyên soái.

Cùng ngày, Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tổ chức lễ phong quân hàm cấp tướng tại khán phòng Bộ Ngoại giao Trung Nam Hải. Theo đó có 10 đại tướng, 55 thượng tướng, 175 trung tướng và 798 thiếu tướng được thụ phong quân hàm.[1]

Do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa, ngày 1 tháng 5 năm 1965, Hội nghị lần thứ 9 của Thường ủy Nhân đại khóa III đã thông qua quyết định hủy bỏ hệ thống quân hàm của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[2] Vào thời điểm này, trừ La Vinh Hoàn đã qua đời, 9 vị nguyên soái còn lại đều chịu ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa theo những cách khác nhau. Hạ Long và Bành Đức Hoài bị bức hại đến chết, Lâm Bưu bại lộ âm mưu đảo chính, bị rơi máy bay tử nạn trong khi đào tẩu. Sáu nguyên soái còn lại bị đàn áp chính trị ít nhiều khốc liệt.

Việc bắt giữ Tứ nhân bang được xem như là mốc kết thúc Cách mạng Văn hóa, có sự tham gia tích cực của Diệp Kiếm Anh, cũng như sự ủng hộ của các nguyên soái còn sống, góp phần đưa Đặng Tiểu Bình lên đỉnh cao quyền lực. Tuy nhiên, chế độ quân hàm vẫn không được khôi phục. Mãi đến năm 1988, một hệ thống cấp bậc quân hàm mới của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được ban hành, với cấp bậc cao nhất là Nhất cấp Thượng tướng, tương đương với cấp bậc Đại tướng cũ, dù vào thời điểm này vẫn còn 2 vị khai quốc nguyên soái là Từ Hướng Tiền và Nhiếp Vinh Trăn. Sau khi Nhiếp Vinh Trăn, vị nguyên soái cuối cùng qua đời vào năm 1992, cấp bậc Nguyên soái chính thức không tồn tại. Hai năm sau, năm 1994, cấp bậc Nhất cấp Thượng tướng cũng bị bãi bỏ, cấp bậc Thượng tướng trở thành cấp bậc cao nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cho đến tận ngày nay.

Danh sách 10 vị Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

sửa
Thứ tự Họ tên Thời gian sống Ảnh Tuổi lúc thụ phong Chức vụ lúc thụ phong Ghi chú
1 Chu Đức
朱德
1886-1976   68 tuổi, 300 ngày Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
2 Bành Đức Hoài
彭德怀
1898-1974   56 tuổi, 338 ngày Phó thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Bị bức hại chết trong Cách mạng Văn hóa
3 Lâm Bưu
林彪
1907-1971   47 tuổi, 296 ngày Phó thủ tướng Tử nạn máy bay trong khi đào tẩu
4 Lưu Bá Thừa
刘伯承
1892-1986   62 tuổi, 297 ngày Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
5 Hạ Long
贺龙
1896-1969   59 tuổi, 189 ngày Phó thủ tướng
Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
Bị bức hại chết trong Cách mạng Văn hóa
6 Trần Nghị
陈毅
1901-1972   54 tuổi, 32 ngày Phó thủ tướng, kiêm Thị trưởng Thượng Hải
7 La Vinh Hoàn
罗荣桓
1902-1963   52 tuổi, 305 ngày Phó chủ tịch Quốc hội
Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
8 Từ Hướng Tiền
徐向前
1901-1990   53 tuổi, 323 ngày Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
9 Nhiếp Vinh Trăn
聂荣臻
1899-1992   55 tuổi, 272 ngày Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương
10 Diệp Kiếm Anh
叶剑英
1897-1986   58 tuổi, 152 ngày Phó chủ tịch Chính hiệp
Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương

Xem thêm

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ 徐平主编. 新中国实行军衔纪实 (bằng tiếng Trung). 北京: 金城出版社. ISBN 9787802513785. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  2. ^ 搜狐军事编者. “中国首次取消军衔制”. 搜狐网军事 (bằng tiếng Trung). 北京. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2017.

Tham khảo

sửa