NCIS (phim truyền hình)
NCIS (tạm dịch: NCIS: Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Hải Quân) là bộ phim truyền hình tố tụng về cảnh sát Hoa Kỳ xoay quanh một đội hư cấu gồm các đặc vụ đến từ NCIS, từ giết người đến gián điệp, tấn công khủng bố đến đánh cắp thông tin bí mật, những nhân vật này đi bất cứ nơi nào cần thiết để điều tra tất cả các tội phạm liên quan đến Hải quân Hoa Kỳ. Khái niệm và dàn nhân vật ban đầu được giới thiệu trong hai tập của series gốc JAG (mùa tám tập 20-21: "Ice Queen" / "Meltdown"). Là phần phụ nổi tiếng và thành công nhất của nguyên tác, kết hợp với các yếu tố thuộc thể loại chính kịch quân sự và tố tụng cảnh sát, NCIS công chiếu lần đầu vào ngày 23 tháng 9 năm 2003 trên đài CBS. Donald P. Bellisario và Don McGill là hai thành viên đầu tiên đồng sáng tạo kiêm giám đốc sản xuất loạt phim nhượng quyền thương mại NCIS. Tính đến năm 2022, NCIS là bộ phim truyền hình dài thứ ba có kịch bản không hoạt hình vào khung giờ vàng của Hoa Kỳ đang lên sóng, chỉ đứng sau Law & Order: Special Victims Unit (1999–nay) và Law & Order (1990–2010, 2022–hiện tại). Tác phẩm cũng là series truyền hình dài thứ 7 có kịch bản trong khung giờ cao điểm của Mỹ nói chung.
NCIS | |
---|---|
Thể loại |
|
Sáng lập | |
Diễn viên | |
Nhạc phim | Numeriklab |
Nhạc dạo | "NCIS Theme" |
Soạn nhạc |
|
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Sản xuất | |
Giám chế |
|
Nhà sản xuất |
|
Kỹ thuật quay phim | Billy Webb |
Thời lượng | 39–44 phút |
Đơn vị sản xuất |
|
Trình chiếu | |
Kênh trình chiếu | CBS |
Định dạng hình ảnh | |
Định dạng âm thanh | Dolby Digital 5.1 |
Phát sóng | 23 tháng 9 năm 2003 | – hiện tại
Thông tin khác | |
Chương trình liên quan |
Ban đầu dự án sở hữu tiêu đề bị thừa thông tin – Navy NCIS: Naval Criminal Investigative Service, sau đó được rút ngắn lại thành NCIS: Naval Criminal Investigative Service và cuối cùng là NCIS. Trong mùa 6, một tập phim gồm hai phần đã dẫn đến loạt phim phụ có tựa đề NCIS: Los Angeles. Điều tương tự tiếp tục diễn ra ở mùa 11, series phụ thứ hai được ra đời với cái tên NCIS: New Orleans. Mặc dù phim có sự khởi đầu xếp hạng còn khá chậm, hầu như không lọt vào tốp 30 trong hai phần đầu tiên, nhưng kể từ mùa 3 trở đi đã cho thấy sự tiến bộ vượt bậc, liên tục đứng trong tốp 20. Đến mùa 6, NCIS đã trở thành bộ phim ăn khách thuộc tốp 5 và vẫn giữ nguyên vị trí kể từ đó. Năm 2011, NCIS chính là chương trình truyền hình được yêu thích nhất nước Mỹ trong một cuộc thăm dò ý kiến trực tuyến của Harris Poll.[1] Tác phẩm kết thúc phần 10 với tư cách là series TV có lượng theo dõi nhiều nhất ở Hoa Kỳ trong mùa truyền hình mạng 2012–13.
Dựa trên dữ liệu từ 66 quốc gia phát sóng, chương trình đã thu hút được một lượng khán giả toàn cầu khổng lồ ước tính tối thiểu lên đến con số 57.6 triệu người xem vào năm 2013, chính thức giúp NCIS trở thành "bộ phim được theo dõi nhiều nhất trên thế giới".[2] Liên Hoan Truyền Hình Monte-Carlo công nhận đây là một trong những loạt phim chính kịch nổi tiếng nhất toàn cầu và đã ba lần trao giải Phim Truyền Hình Dài Tập Xuất Sắc Nhất.[3] Ngoài ra NCIS cũng nhận được 3 đề cử Giải Emmy Giờ Vàng danh giá, 17 đề cử Giải Sự Lựa Chọn Của Công Chúng cùng nhiều thành tựu khác trong lĩnh vực truyền hình.[4]
Tiền đề
sửaNCIS là loạt phim truyền hình tố tụng về cảnh sát xoay quanh một nhóm hư cấu gồm các đặc vụ của Đội Phản Ứng Vụ Án Chính từ Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Hải Quân, đây là cơ quan thực thi pháp luật liên bang chính của Bộ Hải Quân Hoa Kỳ. Đơn vị được giao nhiệm vụ điều tra tất cả các loại tội phạm liên quan đến Hải quân, Thủy quân lục chiến Mỹ và gia đình họ mà không phân biệt cấp bậc hay chức vụ. Đặt trụ sở tại xưởng hải quân ở thủ đô Washington, D.C., đội NCIS hoạt động ngoài vòng quân sự được dẫn dắt đến cuối mùa 18 bởi đặc vụ cấp cao giàu kinh nghiệm Leroy Jethro Gibbs (Mark Harmon) - một cựu trung sĩ xạ thủ của thủy quân lục chiến, có tay nghề cao, thông minh, thường dựa nhiều vào bản năng cũng như bằng chứng để giải quyết vụ án. Cựu nhân viên FBI - đặc vụ giám sát Alden Parker (Gary Cole) hiện nắm giữ vai trò trưởng nhóm thay thế.
Diễn viên
sửa- Mark Harmon trong vai Đặc vụ Giám sát NCIS Leroy Jethro Gibbs (phần 1–19)
- Sean Harmon trong vai Leroy Jethro Gibbs thời trẻ
- Sasha Alexander trong vai Đặc Vụ NCIS Caitlin Todd (vai chính: phần 1–2 / vai khách mời: phần 3)
- Michael Weatherly trong vai Đặc Vụ Cấp Cao NCIS Anthony DiNozzo (phần 1–13)
- Pauley Perrette trong vai Chuyên Gia Pháp Y NCIS Abby Sciuto (phần 1–15)
- David McCallum trong vai Dr. Donald "Ducky" Mallard (phần 1–hiện tại)
- Adam Campbell trong vai Donald "Ducky" Mallard thời trẻ
- Sean Murray trong vai Đặc Vụ Cấp Cao NCIS Timothy McGee (vai định kỳ: phần 1 / vai chính: phần 2–hiện tại)
- Cote de Pablo trong vai Đặc Vụ NCIS Ziva David (vai chính: phần 3–11 / khách mời: phần 3 và 16 / định kỳ: phần 17)
- Lauren Holly trong vai Giám Đốc NCIS Jenny Shepard (định kỳ: phần 3 / vai chính: phần 3–5)
- Rocky Carroll trong vai Giám Đốc NCIS Leon Vance (định kỳ: phần 5 / vai chính: phần 6–hiện tại)
- Brian Dietzen trong vai Tiến sĩ Jimmy Palmer (định kỳ: phần 1–5 / vai phụ: phần 6–9 / vai chính: phần 10–hiện tại)
- Emily Wickersham trong vai Đặc Vụ NCIS Eleanor Bishop (khách mời: phần 11 / vai chính: phần 11–18)
- Wilmer Valderrama trong vai Đặc Vụ NCIS Nicholas Torres (phần 14–hiện tại)
- Jennifer Esposito trong vai Đặc Vụ NCIS Alexandra Quinn (phần 14)
- Duane Henry trong vai Đặc vụ Quốc Tế NCIS Clayton Reeves (khách mời: phần 13 / vai chính: phần 14–15)
- Maria Bello trong vai Tiến sĩ Tâm lý và Đặc vụ NCIS Jacqueline Sloane (phần 15–18)
- Diona Reasonover trong vai Chuyên Gia Pháp Y NCIS Kasie Hines (định kỳ: phần 15 / vai chính: phần 16–hiện tại)
- Luật Katrina trong vai Đặc Vụ NCIS Jessica Knight (khách mời: phần 18 / vai chính: phần 19–hiện tại)
- Gary Cole trong vai Đặc Vụ Giám Sát NCIS Alden Parker (phần 19–hiện tại)
Chỉ có David McCallum vào vai Tiến Sĩ Donald "Ducky" Mallard là được xuất hiện trong danh đề cho mọi tập kể từ khi chương trình bắt đầu.
Tập phim
sửaTổng quan
sửaMùa | Số tập | Phát sóng gốc | Rank | Rating | |||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Phát sóng lần đầu | Phát sóng lần cuối | ||||||
Intro | 2 | 22 tháng 4 năm 2003 | 29 tháng 4 năm 2003 | — | — | ||
1 | 23 | 23 tháng 9 năm 2003 | 25 tháng 5 năm 2004 | 23 | 7.8 | ||
2 | 23 | 28 tháng 9 năm 2004 | 24 tháng 5 năm 2005 | 22 | 8.8 | ||
3 | 24 | 20 tháng 9 năm 2005 | 16 tháng 5 năm 2006 | 12 | 9.8 | ||
4 | 24 | 19 tháng 9 năm 2006 | 22 tháng 5 năm 2007 | 15 | 9.0 | ||
5 | 19 | 25 tháng 9 năm 2007 | 20 tháng 5 năm 2008 | 11 | 9.2 | ||
6 | 25 | 23 tháng 9 năm 2008 | 19 tháng 5 năm 2009 | 5 | 10.9 | ||
7 | 24 | 22 tháng 9 năm 2009 | 25 tháng 5 năm 2010 | 4 | 11.5 | ||
8 | 24 | 21 tháng 9 năm 2010 | 17 tháng 5 năm 2011 | 5 | 11.8 | ||
9 | 24 | 20 tháng 9 năm 2011 | 15 tháng 5 năm 2012 | 2 | 12.3 | ||
10 | 24 | 25 tháng 9 năm 2012 | 14 tháng 5 năm 2013 | 1 | 13.5 | ||
11 | 24 | 24 tháng 9 năm 2013 | 13 tháng 5 năm 2014 | 1 | 12.6 | ||
12 | 24 | 23 tháng 9 năm 2014 | 12 tháng 5 năm 2015 | 2 | 11.6 | ||
13 | 24 | 22 tháng 9 năm 2015 | 17 tháng 5 năm 2016 | 1 | 12.8 | ||
14 | 24 | 20 tháng 9 năm 2016 | 16 tháng 5 năm 2017 | 2 | 11.4 | ||
15 | 24 | 26 tháng 9 năm 2017 | 22 tháng 5 năm 2018 | 2 | 10.3 | ||
16 | 24 | 25 tháng 9 năm 2018 | 21 tháng 5 năm 2019 | 3 | 9.6 | ||
17 | 20 | 24 tháng 9 năm 2019 | 14 tháng 4 năm 2020 | 3 | 10.1 | ||
18 | 16 | 17 tháng 11 năm 2020 | 25 tháng 5 năm 2021 | 4 | 10.3 | ||
19 | 21 | 20 tháng 9 năm 2021 | 23 tháng 5 năm 2022 | 4 | 11.9 | ||
20 | 22 | 19 tháng 9 năm 2022 | 22 tháng 5 năm 2023 | 5 | 12.7 |
Thí điểm cửa hậu
sửaJAG
sửaHai tập mùa 8 của loạt phim gốc JAG mang tên "Ice Queen" và "Meltdown" đóng vai trò là thí điểm cho NCIS. Nội dung tập phim đã giới thiệu sơ lược các nhân vật Jethro Gibbs, Anthony DiNozzo, Vivian Blackadder, Abby Sciuto và Donald "Ducky" Mallard.
Patrick Labyorteaux xuất hiện trên NCIS với vai diễn trong JAG ở ba tập "Hung Out to Dry", "Rogue" và "Dark Secrets". Alicia Coppola trở lại loạt phim trong "UnSEALed", "Call of Silence" và "Hometown Hero". Adam Baldwin góp mặt ở tập "A Weak Link" và John M. Jackson tham gia với tư cách là đô đốc đã nghỉ hưu A. J. Chegwidden trong tập "Damned If You Do".
NCIS: Los Angeles
sửaTập phim "Legend" chia làm hai phần trong mùa 6 của NCIS đóng vai trò là thí điểm cho series NCIS: Los Angeles. "Legend" giới thiệu Chris O'Donnell trong vai G. Callen, LL Cool J hóa thân thành Sam Hanna, Daniela Ruah đảm nhận nhân vật Kensi Blye và Barrett Foa vào vai Eric Beale.
Rocky Carroll trở lại trên NCIS: Los Angeles với tư cách là giám đốc NCIS Leon Vance, Pauley Perrette xuất hiện hai lần với vai Abby và Michael Weatherly tham gia dưới danh nghĩa nhân vật Anthony DiNozzo. Các ngôi sao khách mời của NCIS cũng đóng lại các vai giữa loạt phim gồm có David Dayan Fisher và Kelly Hu. Ngoài ra, John M. Jackson cũng xuất hiện trên NCIS: Los Angeles với tư cách là nhân vật đô đốc A. J. Chegwidden trong bộ phim nguyên tác JAG.
NCIS: New Orleans
sửaTương tự, tập phim "Crescent City" chia làm hai phần trong mùa 11 của NCIS đóng vai trò là thí điểm cho series NCIS: New Orleans. "Crescent City" giới thiệu Scott Bakula trong vai Dwayne Pride, Lucas Black hóa thân thành Christopher LaSalle, Zoe McLellan đảm nhận nhân vật Meredith Brody và CCH Pounder vào vai Loretta Wade.
Rocky Carroll tái xuất với tư cách là giám đốc Leon Vance, trong khi các nhân vật chính của loạt phim NCIS như Mark Harmon, Michael Weatherly, Pauley Perrette, Sean Murray, Emily Wickersham, Wilmer Valderrama, David McCallum và Brian Dietzen đều đã xuất hiện trong NCIS: New Orleans. Các diễn viên định kỳ của NCIS là Meredith Eaton, Joe Spano, Diane Neal và Leslie Hope đều là khách mời trong loạt phim phụ này.
Sản xuất
sửaTựa đề
sửaTrước khi ra mắt, loạt quảng cáo trên CBS đã xác định chương trình là "Naval CIS". Đến thời điểm công chiếu xuyên suốt mùa một, tác phẩm được phát sóng với cái tên Navy NCIS.[5][6] Tuy nhiên các nhà sản xuất sau đó nhận thấy ký tự "N" trong NCIS là viết tắt của "Naval", vậy nên tựa đề đã bị thừa nghĩa không cần thiết. Quyết định sử dụng cụm từ này được cho là do CBS đưa ra, trước sự phản đối của Bellisario,[7] ông vẫn thích tên cũ hơn vì cảm thấy nó sẽ:
- Thu hút người xem mới (đặc biệt là fan hâm mộ của loạt phim JAG), họ có thể không biết chữ viết tắt NCIS.
- Phân biệt giữa hai series NCIS và CSI của đài CBS vì đều có chủ đề tương tự, phát âm nghe thoáng qua khá giống nhau và một loạt sản phẩm phụ của hai bộ phim này. (Ví dụ: tiêu đề ban đầu thường bị trích dẫn sai và nhại lại thành "Navy CSI", chi tiết này lại do chính chương trình đề cập đến trong tập đầu tiên)[8]
Phát triển
sửaNăm 2011, NCIS được bình chọn là chương trình truyền hình yêu thích nhất nước Mỹ trong một cuộc thăm dò ý kiến trực tuyến của Harris Poll.[1] Khi kết thúc phần thứ mười, tác phẩm chiếm giữ vị trí series được xem nhiều nhất ở Hoa Kỳ trong mùa truyền hình mạng 2012–13.[9] Diona Reasonover tham gia dàn diễn viên chính ở phần mười sáu sau sự ra đi của Duane Henry và Pauley Perrette.[10][11] Mùa thứ mười bảy công chiếu vào ngày 24 tháng 9 năm 2019,[12][13] và phần tiếp theo tiếp tục ra mắt ở quý cuối năm sau.[14]
Ngắt cảnh
sửaTừ tập hai "Lt. Jane Doe" trở đi, loạt phim bắt đầu chiếu các đoạn phim đen trắng dài hai giây. Các clip này được gọi là "phoofs" hiển thị ở đầu mỗi phân đoạn mô tả hai giây cuối cùng của phân đoạn đó, mỗi tập thường bao gồm năm hoặc sáu đoạn được phân tách bằng quảng cáo.[15] Ngoài ra, kể từ phần ba, một cảnh quay đóng băng khung hình cũng được sử dụng ở thước phim cuối của hầu hết các tập.
Nhân sự
sửaTrong tháng 5 năm 2007, truyền thông loan tin Donald P. Bellisario sẽ rút khỏi chương trình vì lý do bất đồng với ngôi sao loạt phim Mark Harmon.[16] Nhiệm vụ của Bellisario với tư cách là nhà sản xuất phim truyền hình / biên kịch chính được giao lại cho những cộng tác viên lâu năm của loạt phim, bao gồm cả đồng điều hành sản xuất Chas. Floyd Johnson và Shane Brennan, Bellisario vẫn giữ chức vụ giám đốc sản xuất.[17] Vào mùa thu năm 2009, Gary Glasberg gia nhập đoàn làm phim và trở thành nhà điều hành "hàng ngày" của NCIS vì Shane Brennan còn phải tập trung vào dự án phụ NCIS: Los Angeles.[18] Đến ngày 28 tháng 9 năm 2016, Glasberg qua đời trong giấc ngủ ở tuổi 50.[19][20]
Phát hành
sửaPhát sóng
sửaNCIS phát sóng trên Network Ten và TV Hits (trước đây là TV1)[21] tại Úc,[22][23][24][25][26][27][28] Global (được cung cấp trên các kênh chị em Showcase và Lifetime) ở Canada, TV3 và The Box ở New Zealand, Seriale+ (công chiếu lần đầu), TVN (phát trên truyền hình miễn phí), TVN7 (phát lại), AXN (chiếu lại), (Ấn Độ) Fox Crime, Star World India, (Pakistan) ARY Digital, ARY Zindagi, TVOne Pakistan và TV Puls (chiếu lại) ở Ba Lan, Disney+ Hotstar và Rock Entertainment ở Đông Nam Á, CBS Justice, Channel 5 và 5USA ở Vương quốc Anh, M6 ở Pháp, RTÉ2 ở Ireland, Rai 2 ở Ý và Ion Television ở Hoa Kỳ.
Tại gia
sửa19 mùa đầu tiên của NCIS đã ra mắt ở khu vực 1, 2 và 4. Tại Đức (khu vực 2), các mùa 1–4 và 5–8 được phát hành thành hai bộ riêng biệt cho mỗi phần. DVD phần đầu tiên bỏ qua hai tập giới thiệu từ mùa tám của series truyền hình JAG, tuy nhiên chúng vẫn có sẵn trên phiên bản DVD của JAG.
Điện ảnh TV
sửaTại Vương quốc Anh, một số tập chia làm nhiều phần của NCIS đã được biên tập lại thành phim điện ảnh chiếu trên các kênh truyền hình như Channel 5, 5USA, CBS Action và Fox UK. Cụ thể:
Tựa đề | Nguyên tác | Ngày phát sóng | Độ dài | Nguồn |
---|---|---|---|---|
The NCIS Movie: Enemies | "Enemies Foreign" / "Enemies Domestic" | 20 tháng 5, 2013 | 1 giờ 20 phút | [29][30] |
The NCIS Movie: Judgement Day | "Judgment Day (Part I)" / "Judgment Day (Part II)" | 10 tháng 6, 2013 | 1 giờ 40 phút | [31] |
The NCIS Movie: Legend (Legend Compilation) |
"Legend (Part I)" / "Legend (Part II)" | 10 tháng 6, 2013 | 1 giờ 45 phút | [32][33] |
The NCIS Movie: Kill Ari | "Kill Ari (Part I)" / "Kill Ari (Part II)" | 22 tháng 8, 2013 | 2 giờ | [34][35] |
The NCIS Movie: War on Terror | "Engaged (Part I)" / "Engaged (Part II)" | 1 tháng 2, 2014 | 1 giờ 20 phút | [36] |
The NCIS Movie: Payback | "Borderland" / "Patriot Down" / "Rule Fifty-One" | 1 tháng 3, 2014 | 2 giờ 35 phút | [37] |
The NCIS Movie: Shell Shock | "Shell Shock (Part I)" / "Shell Shock (Part II)" | 11 tháng 4, 2014 | 1 giờ 30 phút | [38] |
Death Wish (Part I & II) | "Shabbat Shalom" / "Shiva" | 16 tháng 4, 2014 (1) 18 tháng 4, 2014 (2) |
1 giờ 40 phút | [39][40] |
The NCIS Movie: Race Against Terror: Hiatus |
"Hiatus (Part I)" / "Hiatus (Part II)" |
|
1 giờ 50 phút | [41][42] |
Nhạc nền
sửaCBS Records phát hành nhạc phim đầu tiên của chương trình vào ngày 10 tháng 2 năm 2009.[43] The Official TV Soundtrack là một tập nhạc 22 đĩa bao gồm danh sách bài hát hoàn toàn mới của những nghệ sĩ hàng đầu nổi bật trong các tập phim, cũng như chủ đề gốc series do nhóm Numeriklab sản xuất[44] (lần đầu tiên được bán trên thị trường) và một bản phối lại chủ đề qua sự thể hiện của ban nhạc Ministry. Bộ này cũng gồm các ca khúc do hai nghệ sĩ Pauley Perrette và Coté de Pablo trình diễn.
Phần tiếp theo ra mắt vào ngày 3 tháng 11 năm 2009. NCIS: The Official TV Soundtrack – Vol. 2 là một bộ đĩa chứa nhiều bài hát chưa được phát hành xuyên suốt mùa thứ bảy của series, trong đó có một bản thu âm mang tên "Bitter and Blue" cũng như hai ca khúc được sử dụng ở các mùa trước.[45][46]
Khác
sửaVào năm 2010, CBS Interactive và GameHouse đã phát hành trò chơi điện tử di động mang tên NCIS: The Game cho hệ điều hành iOS, Android, BlackBerry, Windows Mobile và BREW/J2ME. Game có năm hiện trường vụ án khác nhau được viết bởi các tác giả của loạt phim gốc.[47][48]
Đến ngày 1 tháng 11 năm 2011, Ubisoft tiếp tục ra mắt video game chuyển thể từ NCIS trên các hệ máy PC, Xbox 360, PlayStation 3 và Wii. Phiên bản Nintendo 3DS phát hành ngày 6 tháng 3 năm 2012. Game bị xem là trò chế nhạo chương trình và nhận về xếp hạng 2/10 trên GameSpot.[49] Ngoài ra còn có một trò chơi khác trên Facebook và di động được biết đến với cái tên NCIS: Hidden Crimes.[50][51]
Đón nhận
sửaNăm 2016, The New York Times đưa tin NCIS "phổ biến nhất ở các vùng nông thôn", đặc biệt là khu vực Maine và Pennsylvania.[52]
Xếp hạng
sửaBảng xếp hạng theo mùa (dựa trên tổng số người xem trung bình mỗi tập) của NCIS.
- Lưu ý: Mỗi mùa truyền hình mạng của Hoa Kỳ bắt đầu vào cuối tháng 9 và kết thúc vào cuối tháng 5.
Mùa | Tập | Khe thời gian (ET) | Phát sóng ban đầu | Xếp hạng truyền hình trực tiếp | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Mùa ra mắt | Mùa cuối | Mùa TV | Người xem (triệu) |
Thứ hạng (triệu) |
Nhóm tuổi (18–49) | ||||
1 | 23 | Thứ Ba 8:00 giờ tối | 23 tháng 9, 2003 | 25 tháng 5, 2004 | 2003–04 | 11.84[53] | 26 | N/A | |
2 | 23 | 28 tháng 9, 2004 | 24 tháng 5, 2005 | 2004–05 | 13.57[54] | 22 | N/A | ||
3 | 24 | 20 tháng 9, 2005 | 16 tháng 5, 2006 | 2005–06 | 15.27[55] | 16 | N/A | ||
4 | 24 | 19 tháng 9, 2006 | 22 tháng 5, 2007 | 2006–07 | 14.54[56] | 20 | N/A | ||
5 | 19 | 25 tháng 9, 2007 | 20 tháng 5, 2008 | 2007–08 | 14.41[57] | 14 | N/A | ||
6 | 25 | 23 tháng 9, 2008 | 19 tháng 5, 2009 | 2008–09 | 17.77[58] | 5 | N/A | ||
7 | 24 | 22 tháng 9, 2009 | 25 tháng 5, 2010 | 2009–10 | 19.33[59] | 4 | 4.1[59] | ||
8 | 24 | 21 tháng 9, 2010 | 17 tháng 5, 2011 | 2010–11 | 19.46[60] | 5 | 4.1[61] | ||
9 | 24 | 20 tháng 9, 2011 | 15 tháng 5, 2012 | 2011–12 | 19.49[62] | 3 | 4.0[63] | ||
10 | 24 | 25 tháng 9, 2012 | 14 tháng 5, 2013 | 2012–13 | 21.34[9] | 1 | 4.0[9] | ||
11 | 24 | 24 tháng 9, 2013 | 13 tháng 5, 2014 | 2013–14 | 19.77[64] | 3 | 3.3[65] | ||
12 | 24 | 23 tháng 9, 2014 | 12 tháng 5, 2015 | 2014–15 | 18.25[66] | 3 | 2.4[67] | ||
13 | 24 | 22 tháng 9, 2015 | 17 tháng 5, 2016 | 2015–16 | 16.61[68] | 3 | 2.2[69] | ||
14 | 24 | 20 tháng 9, 2016 | 16 tháng 5, 2017 | 2016–17 | 14.63[70] | 3 | 2.5[71] | ||
15 | 24 | 26 tháng 9, 2017 | 22 tháng 5, 2018 | 2017–18 | 17.02[72] | 5 | 2.2[73] | ||
16 | 24 | 25 tháng 9, 2018 | 21 tháng 5, 2019 | 2018–19 | 15.57[74] | 3 | 1.9[74] | ||
17 | 20 | 24 tháng 9, 2019 | 14 tháng 4, 2020 | 2019–20 | 15.33[75] | 2 | 1.7[76] | ||
18 | 16 | 17 tháng 11, 2020 | 25 tháng 5, 2021 | 2020–21 | 12.58[77] | 3 | 1.2[77] | ||
19 | 21 | Thứ Hai 9:00 giờ tối | 20 tháng 9, 2021 | 23 tháng 5, 2022 | 2021–22 | 10.90[78] | 3 | 0.9[78] | |
20 | 22 | 19 tháng 9, 2022 | 22 tháng 5, 2023 | 2022–23 |
- Kể từ mùa 7, NCIS là chương trình có kịch bản được xem nhiều nhất trên truyền hình Mỹ. Trong mùa phim 2012–13, đây cũng là series có lượng theo dõi nhiều nhất trong năm, vượt qua cả American Idol và NBC Sunday Night Football, những chương trình đã xếp trên NCIS trong ba mùa trước.
- Vào ngày 15 tháng 1 năm 2013, tác phẩm đã vượt qua số lượng người xem cao nhất của loạt phim trước, với tập 10 "Shiva" thu hút đến 22.86 triệu người xem.[79]
Giải thưởng
sửaGiải thưởng | Năm | Hạng mục | Người nhận | Kết quả | Ref. |
---|---|---|---|---|---|
Giải ALMA | 2008 | Nữ Diễn Viên Chính Phim Truyền Hình Chính Kịch Xuất Sắc Nhất | Cote de Pablo | Đề cử | [80] |
2009 | Nữ Diễn Viên Chính Phim Truyền Hình Chính Kịch Của Năm | Đề cử | [81] | ||
2011 | Nữ Diễn Viên Truyền Hình Được Yêu Thích Nhất - Vai Chính Phim Chính Kịch | Đoạt giải | [82] | ||
2012 | Nữ Diễn Viên Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Đề cử | [83] | ||
Giải ASCAP | 2004 | Top Series Truyền Hình | Steven Bramson | Đoạt giải | [84] |
Matt Hawkins, Maurice Jackson, Neil Martin | Đoạt giải | [84] | |||
2006 | Đoạt giải | [85] | |||
2007 | Đoạt giải | [86] | |||
2008 | Đoạt giải | [87] | |||
2009 | Đoạt giải | [88] | |||
2010 | Đoạt giải | [89] | |||
2011 | Đoạt giải | [90] | |||
2012 | Đoạt giải | [91] | |||
2013 | Đề cử | [92] | |||
Giải Điện Ảnh & Truyền Hình BMI | 2005 | Giải Âm Nhạc Truyền Hình Mạng BMI | Joseph Conlan | Đoạt giải | [93] |
2008 | Brian Kirk | Đoạt giải | [94] | ||
2009 | Đoạt giải | [95] | |||
2010 | Đoạt giải | [96] | |||
2011 | Đoạt giải | [97] | |||
2012 | Đoạt giải | [98] | |||
2013 | Đoạt giải | [99] | |||
2014 | Đoạt giải | [100] | |||
2015 | Đoạt giải | [101] | |||
2016 | Đoạt giải | [102] | |||
2017 | Đoạt giải | [103] | |||
2018 | Đoạt giải | [104] | |||
2019 | Đoạt giải | [105] | |||
2020 | Đoạt giải | [106] | |||
2021 | Đoạt giải | [107] | |||
2022 | Đoạt giải | [108] | |||
Giải Thưởng Địa Điểm California | 2008 | Đội Địa Điểm Của Năm (Truyền Hình Từng Đoạn) | Jim McClafferty, Joel Sinderman, Emily Esses, Darrin Lipscomb, Damon Rivetti | Đoạt giải | [109] |
2013 | Emily Kirylo, Jim McClafferty, Joel Sinderman, Michael Soleau | Đoạt giải | [110] | ||
Giải Truyền Thông GLAAD | 2012 | Tập Phim Lẻ Xuất Sắc (Trong Serries Không Có Nhân Vật LGBT Thông Thường) | NCIS | Đề cử | [111] |
2016 | Đề cử | [112] | |||
Giải Nữ Thần Vàng | 2014 | Giải Khán Giả Truyền Hình Quốc Tế, Phim Truyền Hình Chính Kịch Hay Nhất | NCIS | Đoạt giải | [3] |
2015 | Đoạt giải | [3] | |||
2017 | Đoạt giải | [3] | |||
Giải Hiệp Hội Nghề Nghiệp Hollywood | 2012 | Tổng Hợp Hình Ảnh Xuất Sắc – Truyền Hình | Bob Minshall, Mark Intravartolo, Jeremy Jozwik and Carrie Smith | Đoạt giải | [113] |
2020 | Hiệu Ứng Hình Ảnh Nổi Bật – Từng Đoạn (Hơn 13 Tập) | Matt Von Brock, Javier Gallego, Carrie Smith, Erik O'Donnell, Del Depierro, Bob Minshall | Đề cử | [114] | |
Giải Nhà Quảng Cáo ICG | 2010 | Maxwell Weinberg Publicist Showmanship – Truyền Hình | NCIS (chia sẻ với NCIS: Los Angeles) | Đoạt giải | [115] |
Giải Imagen | 2006 | Nữ Diễn Viên Phụ Xuất Sắc Nhất/Phim Truyền Hình | Cote de Pablo | Đề cử | [116] |
2008 | Đoạt giải | [117] | |||
2009 | Đề cử | [118] | |||
2011 | Nữ Diễn Viên Chính Xuất Sắc Nhất/Phim Truyền Hình | Đề cử | [119] | ||
2019 | Nam Diễn Viên Phụ Xuất Sắc Nhất/Phim Truyền Hình | Wilmer Valderrama | Đoạt giải | [120] | |
2020 | Nữ Diễn Viên Phụ Xuất Sắc Nhất/Phim Truyền Hình | Cote de Pablo | Đề cử | [121] | |
Giải Truy Cập Phương Tiện | 2014 | Giải Hiệp Hội Tuyển Vai Hoa Kỳ | Susan Bluestein & Jason Kennedy | Đoạt giải | [122] |
Giải Hình Ảnh NAACP | 2010 | Nam Diễn Viên Phụ Phim Truyền Hình Chính Kịch Xuất Sắc Nhất | Rocky Carroll | Đề cử | [123] |
2013 | Đề cử | [124] | |||
Giải Sự Lựa Chọn Của Công Chúng | 2010 | Phim Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | NCIS | Đề cử | [125] |
Nam Diễn Viên Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Mark Harmon | Đề cử | [125] | ||
2011 | Phim Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | NCIS | Đề cử | [126] | |
Người Chiến Đấu Tội Phạm Phim Truyền Hình Được Yêu Thích | Mark Harmon | Đề cử | [126] | ||
2012 | Phim Truyền Hình Chính Kịch Tội Phạm Được Yêu Thích Nhất | NCIS | Đề cử | [127] | |
2013 | Đề cử | [128] | |||
2014 | Đề cử | [129] | |||
Nữ Diễn Viên Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Pauley Perrette | Đề cử | [129] | ||
Nam Diễn Viên Truyền Hình Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Mark Harmon | Đề cử | [129] | ||
2015 | Chương Trình Truyền Hình Yêu Thích | NCIS | Đề cử | [130] | |
Biểu Tượng Truyền Hình Yêu Thích | Mark Harmon | Đề cử | [130] | ||
2016 | Phim Truyền Hình Chính Kịch Tội Phạm Được Yêu Thích Nhất | NCIS | Đề cử | [131] | |
Nam Diễn Viên Phim Truyền Hình Tội Phạm Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Mark Harmon | Đề cử | [131] | ||
Nữ Diễn Viên Phim Truyền Hình Tội Phạm Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Pauley Perrette | Đề cử | [131] | ||
2017 | Phim Truyền Hình Chính Kịch Tội Phạm Được Yêu Thích Nhất | NCIS | Đề cử | [132] | |
Nam Diễn Viên Phim Truyền Hình Tội Phạm Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Mark Harmon | Đoạt giải | [132] | ||
Nữ Diễn Viên Phim Truyền Hình Tội Phạm Chính Kịch Được Yêu Thích Nhất | Pauley Perrette | Đề cử | [132] | ||
Giải Emmy Giờ Vàng | 2005 | Nam Diễn Viên Khách Mời Phim Truyền Hình Chính Kịch Xuất Sắc Nhất | Charles Durning / "Call of Silence" | Đề cử | [133] |
2008 | Điều Phối Viên Pha Mạo Hiểm Xuất Sắc Nhất | Diamond Farnsworth / "Requiem" | Đề cử | [134] | |
2013 | Điều Phối Viên Pha Mạo Hiểm Xuất Sắc Nhất Cho Phim Truyền Hình Chính Kịch, Miniseries Hoặc Điện Ảnh | Diamond Farnsworth / "Revenge" | Đề cử | [135] | |
Giải Phim Truyền Hình Quốc Tế Seoul | 2010 | Phim Truyền Hình Nước Ngoài Được Yêu Thích Nhất Trong Năm | NCIS | Đoạt giải | [136] |
Giải Joey | 2018 | Nam Diễn Viên Chính Phim Truyền Hình Xuất Sắc Nhất | Alexander Davis | Đề cử | [137] |
Giải Hiệp Hội Hiệu Ứng Hình Ảnh | 2004 | Tranh Mờ Xuất Sắc Trong Chương Trình Truyền Hình, Video Ca Nhạc Hoặc Quảng Cáo | Steven J. Rogers / "Yankee White" | Đề cử | [138] |
Giải Nghệ Sĩ Trẻ | 2005 | Màn Trình Diễn Phim Truyền Hình Xuất Sắc Nhất (Hài Kịch Hoặc Chính Kịch) – Nam Diễn Viên Nhí Khách Mời | Cody Estes | Đề cử | [139] |
2008 | Màn Trình Diễn Phim Truyền Hình Xuất Sắc Nhất – Nam Diễn Viên Nhí Khách Mời | Dominic Scott Kay / "Lost & Found" | Đề cử | [140] | |
2011 | Màn Trình Diễn Phim Truyền Hình Xuất Sắc Nhất – Nữ Diễn Viên Nhí Khách Mời Độ Tuổi 15-11 | Madisen Beaty | Đoạt giải | [141] | |
Sadie Calvano | Đề cử | [141] | |||
2012 | Màn Trình Diễn Phim Truyền Hình Xuất Sắc Nhất – Nữ Diễn Viên Nhí Khách Mời Từ 10 Tuổi Trở Xuống | Madisen Beaty | Đề cử | [142] | |
2020 | Màn Trình Diễn Nghệ Sĩ Tuổi Teen Khách Mời Xuất Sắc Nhất - Phim Truyền Hình | Sloane Morgan Siegel | Đề cử | [143] | |
Giải Nghệ Sĩ Giải Trí Trẻ | 2018 | Nam Diễn Viên Nhí Khách Mời Xuất Sắc Nhất Từ 10 Tuổi Trở Xuống – Phim Truyền Hình | Alexander Davis | Đề cử | [144] |
2020 | Nam Diễn Viên Nhí Khách Mời Xuất Sắc Nhất - Phim Truyền Hình | Sloane Morgan Siegel | Đề cử | [145] |
Nhượng quyền
sửaNCIS: Los Angeles
sửaVào tháng 11 năm 2008, truyền thông đưa tin series phụ đầu tiên lấy bối cảnh tại Los Angeles sẽ được giới thiệu trong tập phim thử nghiệm chia làm hai phần ở mùa thứ sáu của NCIS. "Legend (Part I)" và "Legend (Part II)" phát sóng lần lượt vào ngày 28 tháng 4 và 5 tháng 5 năm 2009.[146][147][148] Trong tháng 5, CBS quyết định lựa chọn loạt phim lấy tiêu đề là NCIS: Los Angeles.[149]
Tác phẩm có sự tham gia của Chris O'Donnell trong vai Đặc Vụ G. Callen,[150] LL Cool J hóa thân thành Đặc Vụ Sam Hanna,[150][151] Louise Lombard đảm nhận nhân vật Đặc vụ Lara Macy, Peter Cambor sẽ là Nhà Tâm Lý Học Điều Hành Nate Getz và Daniela Ruah đóng vai trò là Đặc Vụ Kensi Blye.[152][153] Sau thông cáo chính thức của CBS, báo chí xác nhận Lombard sẽ không tiếp tục đồng hành cùng dự án.[154] Linda Hunt và Adam Jamal Craig lần lượt được bổ sung vào vai Giám Đốc OSP Henrietta Lange và Đặc Vụ Dom Vail.[155] Craig không trở lại mùa thứ hai và được thay thế bởi Eric Christian Olsen (Marty Deeks), đây là vai chính lên sóng thường xuyên xuyên suốt bộ phim.[156]
Các nhân vật từ nguyên tác NCIS cũng xuất hiện trong phần ngoại truyện. Rocky Carroll vào vai định kỳ Leon Vance,[157][158][159] Pauley Perrette góp mặt với danh nghĩa khách mời (Abby Sciuto) trong các tập "Killshot" và "Random on Purpose" của phần mở đầu.[158][159][160]
NCIS: Los Angeles được tạo ra bởi Shane Brennan. Trong tháng 4 năm 2011, nhà sáng tạo tác phẩm gốc Donald Bellisario đâm đơn kiện hãng CBS về dự án vì hợp đồng đã cho anh "cơ hội đầu tiên" để phát triển phần phụ hoặc phần tiếp theo.[161] Vụ kiện bị một thẩm phán bác bỏ vào tháng 6 năm 2012, tuy nhiên các cuộc thương thảo vẫn tiếp tục diễn ra giữa CBS và Bellisario. Đến tháng 1 năm 2013, tranh chấp đã giải quyết ổn thỏa bên ngoài tòa án một tuần trước khi chính thức đưa ra xét xử, các điều khoản thỏa thuận không được tiết lộ nhưng được mô tả là thân thiện.[162][163][164]
NCIS: New Orleans
sửaVào tháng 9 năm 2013, báo cáo truyền thông cho biết loạt phim phụ thứ hai lấy bối cảnh vùng New Orleans sẽ được giới thiệu trong tập thử nghiệm chia làm hai phần ở mùa 11 của NCIS với tiêu đề "Crescent City (Part I)" và "Crescent City (Part II)". Tác phẩm quay trong tháng 2 năm 2014 và phát sóng lần lượt vào ngày 25 tháng 3 và 1 tháng 4 cùng năm. Ngôi sao NCIS Mark Harmon và Gary Glasberg là giám đốc sản xuất dự án,[165] trước đó họ đã thảo luận về ý tưởng và cho biết "Đó còn hơn cả một tập phim quét" (nghĩa là tập phim có chủ đề khiêu khích và thu hút hàng đầu về xếp hạng truyền hình).[166] Theo Glasberg, tiền đề ở đây chính là "tất cả về văn phòng NCIS nhỏ bé nằm bên dưới [New Orleans] và các trường hợp mà họ gặp phải".[167] Đến tháng 5 năm 2014, CBS quyết định lựa chọn series ngoại truyện thứ hai của nguyên tác với tựa đề là NCIS: New Orleans.[168]
Dự án có sự góp mặt của Scott Bakula vào vai Đặc Vụ Dwayne Cassius Pride, Lucas Black đảm nhận Đặc vụ Christopher LaSalle, Zoe McLellan hóa thân thành Đặc Vụ Meredith "Merri" Brody, nhân vật Sebastian Lund do Rob Kerkovich thể hiện và CCH Pounder sẽ là Tiến Sĩ Loretta Wade.[169][170][171][172] Daryl "Chill" Mitchell, Shalita Grant và Vanessa Ferlito tham gia dàn diễn viên chính sau đó, họ lần lượt đóng vai chuyên gia máy tính Patton Plame, Đặc Vụ Sonja Percy và Tammy Gregorio.[173][174]
NCIS và NCIS: New Orleans đã có hai lần giao nhau trong sự kiện, cụ thể:
- "Sister City" (phần 13): Anh trai của Abby bị tình nghi đầu độc các hành khách và phi hành đoàn trên một chiếc máy bay tư nhân đi từ New Orleans đến Washington, D.C..
- "Pandora's Box" (phần 14): Một cuốn sách chứa vở kịch lý thuyết về khủng bố bị đánh cắp và bán đấu giá trên thị trường chợ đen khi tổ chức cố vấn an ninh nội địa của Abby bị xâm phạm.
NCIS: Hawaiʻi
sửaNgày 16 tháng 2 năm 2021, trên mạng xuất hiện thông tin phần phụ lấy bối cảnh ở Hawaii đang được thực hiện bởi giám đốc điều hành của NCIS: New Orleans là Christopher Silber và Jan Nash.[175] Đến ngày 23 tháng 4, CBS chính thức cho phép sản xuất dự án tiếp theo và dự định đưa vào nhân vật nữ chính đầu tiên của loạt phim.[176] Chương trình ra mắt trên kênh CBS vào ngày 20 tháng 9 cùng năm, nữ diễn viên Vanessa Lachey đảm nhận tuyến vai chính.
NCIS: Sydney
sửaNgày 16 tháng 2 năm 2022, truyền thông loan báo tin loạt phim ngoại truyện lấy bối cảnh ở Sydney, Australia đang được thực hiện. Nhà sản xuất Shane Brennan của NCIS: Los Angeles sẽ tham gia vào dự án, đây là phần phụ quốc tế đầu tiên cho nhượng quyền thương mại NCIS với sự góp mặt của các diễn viên và nhà sản xuất địa phương người Úc. Bộ phim ra mắt trên kênh Network 10 cũng tại khu vực này và có sẵn để phát trực tuyến toàn thế giới ở dịch vụ đăng ký video theo yêu cầu Paramount+ vào năm 2023.[177][178][179][180]
Tham khảo
sửa- ^ a b Seidman, Robert (5 tháng 5 năm 2011). “NCIS Voted America's All-Time Favorite TV Show; Two and a Half Men, Bones, House, Several Current Shows Rank”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 8 tháng Năm năm 2011. Truy cập 5 tháng Năm năm 2011.
- ^ Đa nguồn:
- Andreeva, Nellie (11 tháng 6 năm 2014). “'NCIS', 'Modern Family' Most Watched Series In The World & Other Monte-Carlo TV Awards”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- Kenneally, Tim (11 tháng 6 năm 2014). “'NCIS' Is the Most-Watched Drama in the World”. TheWrap. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- Kevin Day, Patrick (11 tháng 6 năm 2014). “'NCIS' named most-watched drama in the world”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- ^ a b c d Multi-source:
- “Palmarès des Nymphes d'Or Golden Nymph Awards Winners” (PDF). TVFestival.com. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- “Palmarès des Nymphes d'Or Golden Nymph Awards Winners” (PDF). TVFestival.com. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- “Palmarès des Nymphes d'Or Golden Nymph Awards Winners” (PDF). TVFestival.com. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- ^ “NCIS - Awards & Nominations”. Academy of Television Arts & Sciences. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
- ^ “NCIS”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Netzley, Sara (6 tháng 4 năm 2023). “How well do you know NCIS? Take our quiz and find out”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Carter, Bill (25 tháng 10 năm 2005). “Behind a Quiet Little Hit, a Reliable Hit Maker”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng tư năm 2023. Truy cập 5 Tháng tư năm 2023.
- ^ “Yankee White”. NCIS. Mùa 1. Tập 1. 23 tháng 8 năm 2003. 4:53 phút.
- ^ a b c Patten, Dominic (23 tháng 5 năm 2013). “Full 2013-2014 TV Season Series Rankings”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng Ba năm 2023. Truy cập 25 Tháng Ba năm 2023.
- ^ Rice, Lynette (15 tháng 5 năm 2018). “How NCIS said goodbye to Pauley Perrette”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018.
- ^ Andreeva, Nellie (18 tháng 7 năm 2018). “'NCIS': Diona Reasonover Promoted To Series Regular For Season 16”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023.
- ^ Welch, Alex (11 tháng 4 năm 2019). “NCIS renewed for season 17 by CBS”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2019.
- ^ “CBS Announces Fall 2019–2020 Primetime Premiere Dates”. The Futon Critic. 13 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ White, Peter; Andreeva, Nellie (6 tháng 5 năm 2020). “CBS Renews 18 Series, Including Freshmen 'FBI: Most Wanted', 'Bob ♥ Abishola', 'All Rise' & 'The Unicorn'”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Season 10 Phoof Challenge”. CBS.com. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023.
- ^ “NCIS Loses Producer”. New York Post. 7 tháng 5 năm 2007. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Ausiello, Michael (5 tháng 5 năm 2007). “Exclusive: NCIS Boss Exits!”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023.
- ^ Pickard, Michael (2 tháng 8 năm 2012). “NCIS sails on”. C21 Media. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Goldberg, Lesley (28 tháng 9 năm 2016). “Gary Glasberg, 'NCIS' Showrunner, Dies at 50”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023.
- ^ Mitovich, Matt Webb (28 tháng 9 năm 2016). “NCIS Boss Gary Glasberg Dead at 50, Remembered as 'Gifted Creative Voice'”. TVLine. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.
- ^ Knox, David (18 tháng 12 năm 2013). “Seinfeld switching to TVH!TS”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (15 tháng 9 năm 2008). “Returning: NCIS”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (11 tháng 9 năm 2009). “Returning: NCIS. Airdate: NCIS: LA”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (1 tháng 10 năm 2010). “Airdate: Undercover Boss Australia. Returning: Modern Family, NCIS, Good Wife”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (18 tháng 9 năm 2011). “Returning: NCIS, NCIS: LA, Hawaii Five-0”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (24 tháng 9 năm 2012). “Returning: NCIS, NCIS: LA”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (15 tháng 10 năm 2013). “Returning: NCIS”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ Knox, David (13 tháng 9 năm 2014). “TEN to improve schedule with Scorpion, Gold Coast Cops, NCIS, Modern Family”. Australia: TV Tonight. Lưu trữ bản gốc 10 tháng Bảy năm 2022. Truy cập 10 tháng Bảy năm 2022.
- ^ “NCIS: The Movie | NCIS”. Channel 5. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “NCIS | The NCIS Movie: Enemies”. Radio Times. 8 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
- ^ “NCIS Movie: Judgement Day”. TVGuide.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Legend Compilation | NCIS”. Channel 5. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “NCIS | The NCIS Movie: Legend”. Radio Times. 8 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
- ^ “NCIS”. Radio Times. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
- ^ “The NCIS Movie: Kill Ari”. TVGuide.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
- ^ “NCIS | The NCIS Movie: War on Terror: Engaged – Parts One and Two”. Radio Times. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “The NCIS Movie: Payback on Channel 5 +1, Sat 1 Mar 7:30pm – Your UK TV Listings at”. TVGuide.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “The NCIS Movie: Shell Shock | NCIS”. Channel 5. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Season 10 - Episode 11: Death Wish (Part I)”. Channel 5. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ “Season 10 - Episode 12: Death Wish (Part II)”. Channel 5. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ “NCIS Movie: Race Against Terror”. TVGuide.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2016.
- ^ “NCIS Movie: Race Against Terror: Hiatus”. Radio Times. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2016.
- ^ “NCIS Music”. ncismusic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
- ^ “NCIS: The Official TV Soundtrack Released Today”. Numeriklab. 10 tháng 2 năm 2009. Lưu trữ bản gốc 8 tháng Năm năm 2009. Truy cập 11 Tháng tư năm 2009.
- ^ “NCIS, Vol. 2 (The Official TV Soundtrack)”. Apple Music. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Various – NCIS: The Official TV Soundtrack Vol. 02”. Discogs. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Wagner, Alex (7 tháng 9 năm 2010). “CBS Interactive and GameHouse to offer NCIS mobile game and contest”. PhoneDog. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ “NCIS: The Board Game (2010)”. BoardGameGeek. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ “NCIS Review”. GameSpot. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng mười hai năm 2011. Truy cập 4 Tháng Một năm 2012.
- ^ “NCIS: Hidden Crimes”. Facebook. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ “NCIS: Hidden Crimes”. Amazon. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Katz, Josh (27 tháng 12 năm 2016). “Duck Dynasty vs. Modern Family: 50 Maps of the U.S. Cultural Divide”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc 29 Tháng Ba năm 2017.
- ^ “I.T.R.S. Ranking Report”. ABC Medianet. 2 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2008.
- ^ “"ABC Television Network 2004–2005 Primetime Ranking Report"”. ABC Medianet. 1 tháng 6 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2007.
- ^ “"ABC Television Network 2005–2006 Primetime Ranking Report"”. ABC Medianet. 31 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2007.
- ^ “"ABC Television Network 2006–2007 Primetime Ranking Report"”. ABC Medianet. 30 tháng 5 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
- ^ “"ABC Television Network 2007–2008 Primetime Ranking Report"”. ABC Medianet. 28 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2009.
- ^ “"ABC Television Network 2008–2009 Primetime Ranking Report"”. ABC Medianet. 2 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
- ^ a b Gorman, Bill (16 tháng 6 năm 2010). “Final 2009–10 Broadcast Primetime Show Average Viewership”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Mười năm 2012. Truy cập 29 tháng Bảy năm 2010.
- ^ Gorman, Bill (1 tháng 6 năm 2011). “2010–11 Season Broadcast Primetime Show Viewership Averages”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2011.
- ^ Gorman, Bill (1 tháng 6 năm 2011). “2010–11 Season Broadcast Primetime Show 18–49 Ratings Averages”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 21 tháng Mười năm 2014. Truy cập 7 tháng Mười năm 2014.
- ^ Gormam, Bill (24 tháng 5 năm 2012). “Complete List Of 2011–12 Season TV Show Viewership: Sunday Night Football Tops, Followed By American Idol, NCIS & Dancing With The Stars”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng hai năm 2014. Truy cập 25 tháng Năm năm 2012.
- ^ Gormam, Bill (24 tháng 5 năm 2012). “Complete List Of 2011–12 Season TV Show Ratings: Sunday Night Football Tops, Followed By American Idol, The Voice & Modern Family”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 2 tháng Mười năm 2014. Truy cập 7 tháng Mười năm 2014.
- ^ “Full 2013–2014 TV Season Series Rankings”. Deadline Hollywood. 22 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 25 tháng Năm năm 2014. Truy cập 25 tháng Năm năm 2014.
- ^ Mitovich, Matt Webb (22 tháng 5 năm 2014). “Sunday Night Football, Big Bang Top Ratings for 2013–14 Season; No. 2 New Comedy Got Axed”. TVLine. Lưu trữ bản gốc 14 tháng Mười năm 2014. Truy cập 7 tháng Mười năm 2014.
- ^ de Moraes, Lisa (21 tháng 5 năm 2015). “Full 2014–15 TV Season Series Rankings: Football & Empire Ruled”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
- ^ “NCIS: Season 12 Ratings”. Lưu trữ bản gốc 18 tháng Mười năm 2014. Truy cập 17 Tháng Ba năm 2017.
- ^ Porter, Rick (27 tháng 5 năm 2016). “Final same-day viewer averages for 2015–16: Football, NCIS lead charts”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 3 Tháng Một năm 2017. Truy cập 2 Tháng Một năm 2017.
- ^ Porter, Rick (27 tháng 5 năm 2016). “Final adults 18–49 same-day ratings for 2015–16: NFL and Empire on top”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 30 tháng Năm năm 2016. Truy cập 31 tháng Năm năm 2016.
- ^ Porter, Rick (26 tháng 5 năm 2017). “Final same-day viewer averages for 2016–17: Sunday Night Football leads for 6th straight year”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng sáu năm 2017. Truy cập 26 tháng Năm năm 2017.
- ^ Porter, Rick (12 tháng 6 năm 2017). “Final Live +7 adults 18–49 ratings for 2016–17: This Is Us is the No. 1 drama”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 12 Tháng sáu năm 2017. Truy cập 21 tháng Bảy năm 2019.
- ^ Porter, Rick (11 tháng 6 năm 2018). “Final Live +7 viewer averages for 2017–18: Roseanne, Big Bang Theory surpass SNF”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2019.
- ^ Porter, Rick (11 tháng 6 năm 2018). “Final Live +7 adults 18-49 ratings for 2017–18: This Is Us gets the biggest bump”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2019.
- ^ a b de Moraes, Lisa (21 tháng 5 năm 2019). “2018–19 TV Season Ratings: CBS Wraps 11th Season At No. 1 In Total Viewers, NBC Tops Demo; Big Bang Theory Most Watched Series”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2019.
- ^ Porter, Rick (4 tháng 6 năm 2020). “TV Ratings: 7-Day Season Averages for Every 2019-20 Broadcast Series”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
- ^ Patten, Dominic (15 tháng 5 năm 2020). “2019-20 TV Season Ratings: Fox To Win Demo After Long Dry Spell; CBS First In Viewers For 12th Year In A Row”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
- ^ a b Porter, Rick (8 tháng 6 năm 2021). “2020-21 TV Ratings: Complete 7-Day Ratings for Broadcast Network Series”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2021.
- ^ a b Porter, Rick (8 tháng 6 năm 2022). “2021-22 TV Ratings: Final Seven-Day Numbers for Every Network Series”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2022.
- ^ Kondolojy, Amanda (17 tháng 1 năm 2013). “Tuesday Final Ratings: NCIS, Off Their Rockers & The New Normal Adjusted Up”. TV by the Numbers. Bản gốc lưu trữ 19 Tháng Một năm 2013. Truy cập 17 Tháng Một năm 2013.
- ^ “2008 NCLR ALMA Awards” (PDF). almaawards.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2009 NCLR ALMA Awards” (PDF). almaawards.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2011 NCLR ALMA Awards” (PDF). almaawards.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2012 Nclr Alma Awards Nominees”. almaawards.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b “ASCAP Honors Top Film and Television Composers and Songwriters at 19th Annual Awards Celebration”. ASCAP. 21 tháng 4 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Top Television Series”. ASCAP. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013.
- ^ “BMI Honors Composers of Top Movies, TV Shows and Cable Programs at 2005 Film/TV Awards”. bmi.com. 18 tháng 5 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2008 BMI Film/TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2009 BMI Film & Television Music Awards Winners”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2010 BMI Film/TV Award Winners”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.
- ^ “David Arnold Receives Richard Kirk Award at BMI Film & TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2022.
- ^ “Rolfe Kent Receives Richard Kirk Award at BMI Film & TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Cliff Martinez and Top Composers Honored at the 2013 BMI Film & TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Mychael Danna and Top Composers Honored at 2014 BMI Film/TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Oscar-Winning Composer Alexandre Desplat Honored as BMI Icon at 2015 Film/TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Composer James Newton Howard Honored as BMI Icon at 2016 Film/TV Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Alan Silvestri Receives BMI Icon Award at 2017 BMI Film, TV and Visual Media Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
- ^ “John Williams Honored With Special Award at 34th Annual BMI Film, TV & Visual Media Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Terence Blanchard Honored as a BMI Icon at BMI's 2019 Film, TV & Visual Media Awards”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2023.
- ^ “BMI Film, TV & Visual Media Awards 2020”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “BMI Film, TV & Visual Media Awards 2021”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “BMI Film, TV & Visual Media Awards 2022”. BMI Film & TV Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2008 Cola Winners”. California on Location Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2013 Cola Winners”. California on Location Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
- ^ “23rd Annual Glaad Media Award Nominees”. glaad.org. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
- ^ “27th Annual GLAAD Media Awards”. glaad.org. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2016.
- ^ “2012 HPA Awards - Nominees & Winners”. hpaonline.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2020 HPA Awards - Nominees & Winners”. hpaonline.com. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Publicists Awards (2010)”. International Cinematographers Guild. 13 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2011 Imagen Awards Winners & Nominees”. Imagen.org. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2008 Nominees”. imagen.org. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
- ^ “24th Annual Imagen Awards - Nominees & Winners”. imagen.org. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “26th Annual Imagen Awards - Nominees & Winners”. imagen.org. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “34th Annual Imagen Awards Winners Announced”. imagen.org. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Nominations Announced for the 35th Annual Imagen Awards”. imagen.org. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “2014 Media Access Awards”. mediaaccessawards.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Nominees for 41st Naacp Image Awards Announced Live At Press Conference by Taye Diggs, Michael Strahan, Wanda Sykes, Kyle Massey, Chris Massey, Tatyana Ali and Naacp Executives”. naacp.org. 10 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
- ^ “44th NAACP Image Awards - Television Nominees”. naacp.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2013.
- ^ a b “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b c “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b c “Nominees & Winners”. peopleschoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2015.
- ^ a b c “People's Choice Awards 2017: Full List Of Winners”. PeoplesChoice.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
- ^ “57th Primetime Emmys Nominees and Winners”. emmys.com. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “60th Primetime Emmys Nominees and Winners”. emmys.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “65th Primetime Emmys Nominees and Winners”. emmys.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Korea's international awards show highlights best in TV dramas”. The Korea Herald. 15 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Official 2018 Film & Television Nominations” (PDF). Joeyawards.com. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
- ^ “2nd Annual VES Awards”. Visual Effects Society. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
- ^ “The Young Artist Foundation Congratulates all Nominees and Winners”. youngartistawards.org. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2008 Nominations”. youngartistawards.org. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b “2011 Nominations”. youngartistawards.org. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2012 Nominations”. youngartistawards.org. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
- ^ “2020 Nominees”. youngartistawards.org. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Young Entertainer Awards - 2018 nominees and winners” (PDF). YoungEntertainerAwards.org. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Young Entertainer Awards - 2020 nominees and winners” (PDF). YoungEntertainerAwards.org. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
- ^ Ausiello, Michael (25 tháng 11 năm 2008). “Exclusive: CBS eyes NCIS spin-off”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Ausiello, Michael (12 tháng 12 năm 2008). “Exclusive: Fresh 'NCIS' spin-off intel”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2023.
- ^ Sullivan, Brian Ford (19 tháng 3 năm 2009). “The Futon's First Look: "NCIS: Legend" (CBS, Script)”. The Futon Critic. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2009.
- ^ Godwin, Jennifer (20 tháng 5 năm 2009). “CBS News: Medium Saved; NCIS Spinoff Ordered”. E! Online. Lưu trữ bản gốc 18 tháng Chín năm 2016. Truy cập 13 tháng Bảy năm 2016.
- ^ a b Ausiello, Michael (4 tháng 2 năm 2009). “'NCIS' scoop: Chris O'Donnell, LL Cool J to headline spin-off”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Bierly, Mandy (25 tháng 2 năm 2009). “'NCIS' spinoff officially lands LL Cool J”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng tư năm 2023. Truy cập 12 Tháng tư năm 2023.
- ^ “Episode Title: (#622) "Legend, Part 1"”. The Futon Critic. 7 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Episode Title: (#623) "Legend, Part 2"”. The Futon Critic. 16 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2019.
- ^ Mitovich, Matt (28 tháng 5 năm 2009). “Fall TV: New NCIS and Other Shows Recast Lead Roles”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Mitovich, Matt (18 tháng 6 năm 2009). “NCIS: Los Angeles Recruits Oscar Winner Linda Hunt”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Bryant, Adam (27 tháng 7 năm 2010). “NCIS: Los Angeles Promotes Eric Christian Olsen to Series Regular”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Porter, Rick (2 tháng 7 năm 2009). “Rocky Carroll pulls double NCIS duty”. Zap2it. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2019.
- ^ a b “Episode Title: (#103) "Killshot"”. The Futon Critic. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ a b “Episode Title: (#109) "Random on Purpose" (Repeat)”. The Futon Critic. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Borzillo-Vrenna, Carrie (31 tháng 7 năm 2009). “Pauley Perrette to Guest Star on NCIS: Los Angeles”. E! Online. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2019.
- ^ Andreeva, Nellie (28 tháng 4 năm 2011). “'NCIS' Creator Don Bellisario Sues CBS Over 'NCIS: LA', CBS Dismisses His Claims”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Gardner, Eriq (18 tháng 1 năm 2013). “CBS Settles Lawsuit With NCIS Creator”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng Một năm 2013. Truy cập 10 Tháng Ba năm 2013.
- ^ Patten, Dominic (18 tháng 1 năm 2013). “UPDATE: 'NCIS' Creator "Gratified" To Reach Settlement With CBS”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng tư năm 2023. Truy cập 6 Tháng tư năm 2023.
- ^ Kenneally, Tim (18 tháng 1 năm 2013). “CBS and NCIS Creator Settle Lawsuit Over NCIS: L.A.”. TheWrap. Lưu trữ bản gốc 8 Tháng Ba năm 2013. Truy cập 10 Tháng Ba năm 2013.
- ^ Andreeva, Nellie (23 tháng 9 năm 2013). “CBS Prepping Planted 'NCIS' Spinoff Produced By Mark Harmon & Gary Glasberg”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023.
- ^ Willman, Chris (8 tháng 10 năm 2013). “Exclusive: Mark Harmon on the Next NCIS Spinoff”. TV Guide. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Halterman, Jim (8 tháng 10 năm 2013). “NCIS Spoilers: Gary Glasberg on Life Post-Ziva, Gibbs' Journey, Spinoff & More”. TV Fanatic. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023.
- ^ Swift, Andy (9 tháng 5 năm 2014). “Fall TV: CBS Orders NCIS and CSI Spin-Offs, Odd Couple, Kevin Williamson's Stalker and 4 More to Series (But Not How I Met Your Dad?)”. TVLine. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ Hibberd, James (3 tháng 2 năm 2014). “'NCIS' scoop: Scott Bakula to star in new spinoff”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
- ^ Mitovich, Matt Webb (3 tháng 2 năm 2014). “Scoop: NCIS: New Orleans Pilot Adds Sons of Anarchy's CCH Pounder, JAG Alum”. TVLine. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2023.
- ^ Andreeva, Nellie (10 tháng 2 năm 2014). “Lucas Black Joins CBS' 'NCIS' Spinoff”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
- ^ Haithman, Diane (17 tháng 7 năm 2014). “TCA: Rob Kerkovich Joins 'NCIS: New Orleans' As Shooting Starts Next Week”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
- ^ Andreeva, Nellie (19 tháng 6 năm 2015). “'NCIS: New Orleans' Ups Duo To Regulars”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023.
- ^ Petski, Denise (22 tháng 6 năm 2016). “'NCIS: New Orleans': Vanessa Ferlito Cast As New Regular In Season 3”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
- ^ Andreeva, Nellie (16 tháng 2 năm 2021). “'NCIS: Hawaii' Spinoff Eyed By CBS As Franchise's Fourth Series”. Deadline. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
- ^ Andreeva, Nellie (23 tháng 4 năm 2021). “'NCIS: Los Angeles' Renewed For Season 13, 'NCIS: Hawaii' Spinoff With Female Lead Picked Up To Series By CBS”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
- ^ “NCIS: Sydney to launch in 2023”. TV Tonight. 16 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ “NCIS: Sydney, First Ever International Series Joins The NCIS Franchise”. 10Play.com.au. 16 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ “NCIS to film Sydney spin-off for Paramount+ and Network 10 for 2023 release date”. ABC News. 16 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
- ^ “NCIS: Sydney,' 'SEAL Team' Movie Coming to Paramount+”. The Hollywood Reporter. 16 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2022.
Liên kết ngoài
sửa- Website chính thức
- NCIS trên Internet Movie Database
- NCIS tại AllMovie
- NCIS tại TV Guide