Nạn đói Trung Quốc năm 1942–1943
Nạn đói Hà Nam năm 1942–1943 xảy ra ở Hà Nam, đặc biệt là phần phía đông và trung tâm của tỉnh. Nạn đói xảy ra trong bối cảnh Chiến tranh Trung-Nhật và là kết quả của sự kết hợp của các yếu tố tự nhiên và con người. Các nghiên cứu định lượng hiện đại đưa ra con số tử vong là "dưới một triệu", có thể là khoảng 700,000 người.[1] 15 năm sau, Hà Nam lại bị ảnh hưởng bởi Nạn đói lớn ở Trung Quốc.[1]
Nạn đói Hà Nam
| |
---|---|
Quốc gia | Hà Nam, Trung Quốc |
Thời kỳ | Mùa hè năm 1942 - Mùa xuân 1943 |
Tổng số người chết | 700,000 - 1 triệu người.[1] |
Các quan sát | Gây ra bởi hạn hán, châu chấu, Chiến tranh Trung-Nhật, Lũ lụt sông Hoàng Hà nam 1938, tham nhũng và sự quản lý yếu kém của chính phủ |
Nạn đói
sửaNguyên nhân
sửaHà Nam trước đây đã phải hứng chịu hậu quả của chiến tranh. Hàng ngàn thanh niên của tỉnh đã phải đi nhập ngũ. Năm 1938 Chính phủ Quốc dân đã cho lũ lụt sông Hoàng Hà trong nỗ lực ngăn chặn bước tiến của quân Nhật Bản, tràn qua miền đông và trung tâm Hà Nam, trung tâm An Huy và bắc trung tâm Giang Tô. Khoảng 400,000 tới 500,000 thường dân miền Bắc Trung Quốc và binh lính Nhật Bản có thể đã chết vì đói kém, dịch bệnh và lũ lụt. Khi quân Nhật tiến vào khu vực này, đã gây ra nhiều tàn phá, góp phần gây ra nạn đói.[2] Vào thời điểm xảy ra nạn đói, Hà Nam bị chia cắt, với nửa phía đông bị Nhật Bản chiếm đóng và nửa phía tây bỏ trống và trên danh nghĩa nằm dưới quyền của Chính phủ Quốc dân có trụ sở tại Trùng Khánh.
Năm 1942, các trận mưa xuân và hè thiếu, gây ra hạn hán. Ngoài ra, cào cào còn gây ra nhiều thiệt hại cho vụ thu hoạch đương thời. Kết quả là nguồn cung cấp ngũ cốc ở các khu vực bị ảnh hưởng đã giảm đáng kể. Điều này bắt đầu xảy ra vào mùa đông năm đó. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc và Nhật Bản ở các khu vực bị ảnh hưởng vẫn tiếp tục chính sách trưng dụng ngũ cốc để nuôi binh lính. Nhà sử học môi trường Micah S. Muscolino cũng cho rằng có mối liên hệ giữa việc cố ý làm ngập sông Hoàng Hà vào năm 1938 và nạn đói năm 1942 vì lũ lụt đã góp phần làm gián đoạn hoàn toàn hệ thống thủy lợi và nông nghiệp Hà Nam.[3]
Những điều kiện khủng khiếp mà nạn đói tạo ra đã được nhà báo Theodore White mô tả một cách sinh động trong một phóng sự đặc biệt viết cho tạp chí Time, xuất bản vào tháng 3 năm 1943.[4] Ăn thịt người tràn lan và cha mẹ bán con cái của họ chỉ để tồn tại.[5] Dịch bệnh sinh sôi trong những điều kiện này, góp phần lớn vào số người chết.[6] Các nỗ lực cứu trợ được tổ chức bởi chính phủ và các nhà truyền giáo Cơ đốc hoạt động trong khu vực.[7]
Chiến tranh và giao thông tê liệt do Nhật Bản xâm lược khiến nhiều người tị nạn phải đi bộ trên đường chạy sang các tỉnh lân cận, nơi cách xa khoảng 300 đến 595 km, và hầu hết những người tị nạn không được tiếp tế lương thực. Trong tác phẩm Cuộc chiến giữa Trung Quốc với Nhật Bản, 1937 – 1945, được rộng rãi cảm thông với Tưởng Giới Thạch, Rana Mitter đổ lỗi nhiều cho các quan chức địa phương tham nhũng hoặc kém năng lực. Ông viết rằng Tưởng đã thông báo giảm hạn ngạch ngũ cốc cho Hà Nam, nhưng người đứng đầu cơ quan quản lý ngũ cốc Hà Nam dù sao cũng đã thu nhiều hơn hạn ngạch yêu cầu.[8] Trong Hội nghị quân sự Tây An tháng 9 năm 1942, các quan chức Hà Nam đã cung cấp thông tin không chính xác và mâu thuẫn về thảm họa, khiến Tưởng Giới Thạch đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng của thảm họa. Quan chức ở các tỉnh lân cận từ chối gửi ngũ cốc dư thừa đến Hà Nam.[9] Một ví dụ khác về sự kém cỏi và tham nhũng này đến từ Nhữ Nam nơi một hệ thống lưu trữ ngũ cốc đã được thiết lập khi chiến tranh bùng nổ. Tuy nhiên, các quan chức ở đó chưa bao giờ thực sự cất giữ ngũ cốc và thay vào đó sử dụng nó để thực hiện các giao dịch riêng.[10] Theodore White mô tả việc được chính quyền địa phương mời đến một bữa tiệc bao gồm các món ngon như 'gà, thịt bò, củ năng và ba chiếc bánh phủ đường'.[11] Tuy nhiên, chính quyền Trùng Khánh bị cho là phản ứng chậm chạp và gửi tiền giấy thay vì lương thực để cứu trợ.[12] Mitter lưu ý rằng nạn đói có thể được coi là hậu quả của việc giảm quyền lực chính phủ Quốc dân đảng đối với các tỉnh khi chiến tranh kéo dài.[13] Ông cũng nói rằng chính phủ của Tưởng cũng miễn cưỡng thúc ép giảm giá cả ngũ cốc khi sự sống còn của quốc gia đang bị đe dọa, nhưng điều này dẫn đến tình trạng các thương nhân buôn bán ngũ cốc không muốn bán ngũ cốc cho Hà Nam, và người nghèo có tiền nhưng không có ngũ cốc để mua.[14]
Người chết
sửaCác học giả hiện đại cho rằng số người chết vì đói là "dưới một triệu", có thể là khoảng 700,000. Con số chính thức là 1,484,983, được tổng hợp vào năm 1943, sau đó được phát hiện là phóng đại quá mức vì nó bao gồm khả năng sinh sản (giảm sinh) và di cư ra nước ngoài.[1] Các tính toán định lượng cho thấy rằng "giảm sinh và tử vong quá mức sẽ đóng góp tương tự vào tổng dân số giảm [trong tổng số 1,484,983]".[1]
Một con số không chính xác phổ biến khác, 3 tới 5 triệu người chết, là "thường không có nguồn gốc hoặc dựa trên ước tính của các nhân chứng như Theodore White,[4] và luôn không tham chiếu đến dữ liệu nhân khẩu học chi tiết".[1] Ước tính cao cấp như vậy do các học giả cộng sản đưa ra có động cơ chính trị để làm cho Nạn đói lớn ở Trung Quốc ở Trung Quốc năm 1959-1961 có vẻ ít chết chóc hơn.[1]
Dưới đây cho thấy sự phân tích các huyện về tổng số chính thức được phóng đại quá mức là 1,484,983, được tổng hợp vào năm 1943. Các số liệu này được dùng để so sánh giữa các quận về mức độ nghiêm trọng của nạn đói.[1]
Huyện | Người chết | Huyện | Người chết | Huyện | Người chết |
---|---|---|---|---|---|
Mạnh Huyện (孟县) | 95,121 | Vũ Huyện (禹县) | 151,028 | Trường Cát (长葛) | 58,802 |
Hoàng Xuyên (潢川) | 37,392 | Huỳnh Dương (荥阳) | 30,347 | Úy Thị (尉氏) | 29,654 |
Tân Trịnh (新郑) | 34,353 | Mật Huyện (密县) | 34,593 | Quảng Vũ (广武) | 15,875 |
Tỉ Thủy (汜水) | 14,306 | Hứa Xương (许昌) | 183,472 | Lỗ Sơn (鲁山) | 13,822 |
Lâm Dĩnh (临颖) | 79,715 | Tương Huyện (襄县) | 118,433 | Yên Lăng (鄢陵) | 108,498 |
Lâm Nhữ (临汝) | 36,446 | Bảo Phong (宝丰) | 11,539 | Giáp Huyện (郏县) | 34,458 |
Yển Thành (郾城) | 40,835 | Hiệp Huyện (叶县) | 103,737 | Phương Thành (方城) | 38,974 |
Phù Câu (扶沟) | 44,210 | Tây Hoa (西华) | 51,989 | Thương Thủy (商水) | 25,899 |
Hạng Thành (项城) | 32,147 | Trầm Khâu (沈邱) | 12,815 | Đăng Phong (登封) | 23,517 |
Thiểm Huyện (陕县) | 19,100 | Yển Sư (偃师) | 7,916 | Tổng | 1,488,993 |
Phân nhánh chính trị
sửaỞ các khu vực do Cộng sản kiểm soát, chính quyền đã giảm hạn ngạch ngũ cốc cho những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi hạn hán. Mao Trạch Đông đã khai thác điều này cho mục đích tuyên truyền để miêu tả Chính quyền Cộng sản vì người dân hơn Chính phủ Quốc dân. Điều này đã có hiệu quả vì nó trở thành 'một điểm so sánh hiển nhiên'.[14][16] Những người Cộng sản có thể theo đuổi chính sách này một phần vì họ phụ thuộc vào chiến tranh du kích và không cần duy trì một đội quân thường trực để tham gia vào liên minh thời chiến.[17]
Tưởng niệm
sửaNạn đói ở Trung Quốc năm 1942–1943 được gọi là 'nạn đói bị lãng quên của Trung Quốc',[18] bị lu mờ bởi cuộc chiến diễn ra xung quanh nó và nạn đói năm 1958–61 lớn hơn gấp nhiều lần. Ngay cả ở Hà Nam, giai đoạn bi thảm này cũng không được người ta nhớ đến hay nhắc đến nhiều, tiểu thuyết gia Lưu Chấn Vân nói rằng có một 'chứng mất trí nhớ tập thể' ở tỉnh này.[19] Tuy nhiên, sự quan tâm đến sự kiện này đã nhen nhóm trong những năm gần đây, với sự ra mắt của bộ phim Trở lại năm 1942, chuyển thể từ tiểu thuyết Nhớ năm 1942 của Lưu Chấn Vân.[20]
Tham khảo
sửa- ^ a b c d e f g h Garnaut, Anthony (tháng 11 năm 2013). “A Quantitative Description of the Henan Famine of 1942”. Modern Asian Studies. Cambridge University Press. 47 (6): 2009–2010, 2034, 2044. doi:10.1017/S0026749X13000103. ISSN 1469-8099.
A detailed survey organized by the Nationalist government in 1943 of the impact of the famine came up with a toll of 1,484,983, broken down by county. The official population registers of Henan show a net decline in population from 1942 to 1943 of one million people, or 3 per cent of the population. If we assume that the natural rate of increase in the population before the famine was 2 per cent (as was the case prior to the outbreak of war, but not during the war), the resulting figure of 5 per cent of the population or 1.7 million people is assumed after the famine. This is consistent with the official figure, and includes both fertility loss (decline in births due to the famine) and outward migration as well as excess deaths. Whereas no reliable data on migration is available, comparison with other famines would suggest that fertility loss and excess deaths would have made a similar contribution to total population loss, which means that the tally of excess deaths is likely to have been well under one million. [...] The statistical tallies of the 1942 famine carry political significance today. The death toll of ‘over 3 million’ cited by Xia Mingfang implies that the ‘Nationalist famine’ in Henan was quantitatively worse than the ‘Communist famine’ that occurred 15 years later.
- ^ Rana Mitter (2013). China's War with Japan, 1937–1945: The Struggle for Survival. London: Allen Lane. p. 268.
- ^ Muscolino (2011), p. 294.
- ^ a b White, Theodore (22 tháng 3 năm 1943). “Until the Harvest Is Reaped”. Time (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
- ^ Diana Lary (2010). The Chinese People at War: Human Suffering and Social Transformation. Cambridge University Press. p. 124.
- ^ Odoric Y. K . Wou. (2007). 'Food shortage and Japanese grain extraction in Henan'. IN: Stephen MacKinnon, Diana Lary and Ezra F. Vogel (eds.), China at War: Regions of China. p. 178.
- ^ Lary (2010). p. 124.
- ^ Mitter (2013), p. 269.
- ^ Mitter (2013), p. 268.
- ^ Mitter (2013), p. 271.
- ^ Mitter (2013), p. 272.
- ^ Mitter (2013), pp. 271–273.
- ^ Mitter (2013), p. 273.
- ^ a b Mitter (2013), p. 275.
- ^ “騰訊歷史:1942-1943年河南到底死了多少人?”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
- ^ Ralph Thaxton (2008). Catastrophe and Contention in Rural China: Mao's Great Leap Forward Famine and the Origins of Righteous Resistance in Da Fo Village. Cambridge University Press. p. 56.
- ^ Mitter (2013), p. 280.
- ^ News China Magazine (January 2013) 'The Forgotten Famine' Lưu trữ 2014-09-14 tại Wayback Machine
- ^ Liu Zhenyun (November 2012). 'Memory, Loss'. Published in The New York Times. [1]
- ^ Liu, Zhenyun; 刘震云 (2009). Wen gu yi jiu si er . Beijing. ISBN 978-7-02-006612-4. OCLC 436459187.
Đọc thêm
sửa- Garnaut, Anthony. "A quantitative description of the Henan famine of 1942." Modern Asian Studies 47.6 (2013): 2007-2045. DOI: https://doi.org/10.1017/S0026749X13000103
- Muscolino, Micah S. The Ecology of War in China: Henan Province, the Yellow River, and Beyond, 1938–1950 (Cambridge UP, 2014).
- Ó Gráda, Cormac. "The ripple that drowns? Twentieth‐century famines in China and India as economic history 1." Economic History Review 61 (2008): 5-37 online.
Liên kết ngoài
sửa- Hình ảnh nạn đói Lưu trữ 2014-10-30 tại Wayback Machine