Mizutani Jun (水谷 (みずたに) (じゅん), sinh ngày 9 tháng 6 năm 1989) là một vận động viên bóng bàn người Nhật Bản.[1] Anh trở thành nhà vô địch Nhật Bản trẻ nhất ở tuổi 17.[3] Anh là người đầu tiên giữ chức vô dịch năm lần liên tiếp, tại các giải vô địch quốc gia từ năm 2007 đến năm 2011.[4]

Mizutani Jun
Thông tin cá nhân
Sinh9 tháng 6, 1989 (35 tuổi)[1]
Iwata, Shizuoka, Nhật Bản
Phong cách chơitay trái, cầm vợt ngang
Thiết bịButterfly, Blade Mizutani Jun Super ZLC, Rubbers Tenergy 64 trong tay thuận, và Tenergy 80 trong tay trái.
Thứ hạng cao nhất4 (tháng 2 năm 2017)[2]
Thứ hạng hiện tại15 (tháng 2 năm 2020)
Câu lạc bộKinoshita Meister Tokyo
Chiều cao1,72 m (5 ft 7+12 in)
Cân nặng68 kg (150 lb; 10,7 st)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Nhật Bản
Thế vận hội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 2016 Rio de Janeiro Đơn
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2016 Rio de Janeiro Đồng đội
Giải vô địch Thế giới
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Quảng Châu 2008 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Yokohama 2009 Đôi
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Moskva 2010 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Dortmund 2012 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Paris 2013 Đôi
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Tokyo 2014 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Kuala Lumpur 2016 Đồng đội
Giải vô địch châu Á
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Dương Châu 2007 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Lucknow 2009 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Ma Cao 2012 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Busan 2013 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Dương Châu 2007 Đôi
Cúp châu Á
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Hà Nội 2007 Đơn
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Vũ Hán 2014 Đơn
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Jaipur 2015 Đơn

Sau khi thắng Vladimir Samsonov với tỉ số 4-1 để giành huy chương đồng tại Thế vận hội Rio 2016, anh đã giành được huy chương đơn đầu tiên trong ba giải đấu quốc tế lớn. Đó cũng là huy chương bóng bàn đơn đầu tiên của Nhật Bản.

Đời tư

sửa

Mizutani cưới bạn gái ngày 22 tháng 11 năm 2013. Ngày 14 tháng 10 năm 2014, anh đăng lên blog của mình, "Hơi trễ một chút. Đây là con gái tôi. Con bé sẽ mãi là thần dược của tôi."[5]

Mizutani xuất hiện trong bộ phim năm 2017 Mixed Doubles, đóng vai chính anh.

Sự nghiệp

sửa

Singles

sửa

Tính đến 12 tháng 8 năm 2016[6]

Đôi nam

sửa
  • Giải vô địch Thế giới: bán kết (2009).
  • ITTF World Tour: nhất (2): Trung Quốc (Tô Châu), Nhật Bản Mở rộng 2009. Nhì (4): Đài Bắc Trung Hoa Mở rộng 2006; Đức, Anh Mở rộng 2009; Hungary Mở rộng 2010.
  • ASIAD: tứ kết (2006).
  • Giải vô địch châu Á: bán kết (2007).

Đôi hỗn hợp

sửa
  • Giải vô địch Thế giới: vòng 16 (2009).
  • Thế vận hội: vô địch (2021).

Đồng đội

sửa
  • Thế vận hội: hạng 5 (2008, 2012), hạng 2 (2016).
  • Giải vô địch Thế giới: hạng 3 (2008, 2010, 2012, 2014), hạng 2 (2016).
  • Cúp Thế giới: hạng 5 (2009).
  • ASIAD: bán kết (2010, 2014).
  • Giải vô địch châu Á: hạng 2 (2007, 2009, 2012, 2013).

Tham khảo

sửa
  1. ^ a b “ITTF player's profiles”. International Table Tennis Federation. Bản gốc lưu trữ 16 Tháng sáu năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  2. ^ “ITTF world ranking”. International Table Tennis Federation. Bản gốc lưu trữ 10 Tháng mười hai năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
  3. ^ “Mizutani, Hirano claim third titles” [Mizutani, Hirano có chức vô địch thứ ba]. Kyodo News. ngày 19 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  4. ^ “Mizutani makes table tennis history”. Kyodo News. ngày 17 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  5. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ 16 tháng Bảy năm 2018. Truy cập 21 Tháng Ba năm 2020.
  6. ^ “ITTF Statistics”. International Table Tennis Federation. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng Ba năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  7. ^ “Jun Mizutani's Biography and Olympic Results”. Sports Reference. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng tư năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
  8. ^ “Jun Mizutani wins 2014 ITTF World Tour Grand Finals”. Meniscus Magazine. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015.