Matsumoto Jun (sinh 1983)
Matsumoto Jun (松本潤 (Thông Bản Nhuận) Matsumoto Jun) là một thần tượng, ca sĩ, diễn viên, người đạo diễn các buổi biểu diễn (concert director), và tarento người Nhật Bản. Anh được biết đến qua là một thành viên trong nhóm nhạc Arashi với tư cách là một thần tượng[3], và qua bộ phim truyền hình như Gokusen và Hana yori Dango với tư cách là một diễn viên. Nhờ diễn xuất trong bộ phim truyền hình Hana yori Dango, anh đã thắng giải GQ Nhật Bản vào năm 2008.[4][5]
Matsumoto Jun 松本潤 | |
---|---|
Sinh | 30 tháng 8, 1983 [1][2] Toshima, Tokyo[2] |
Nghề nghiệp | thần tượng, diễn viên, nhà sản xuất các buổi trình diễn âm nhạc |
Năm hoạt động | 1996–nay |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | J-pop |
Nhạc cụ | Vocals |
Hãng đĩa |
|
Hợp tác với | Arashi |
Matsumoto bắt đầu sự nghiệp của anh trong ngành giải trí vào năm 1996, khi anh dự tính nộp hồ sơ vào Johnny & Associates và được tuyển trực tiếp bởi cố chủ tịch Johnny Kitagawa.[6] Trước khi anh ra mắt với tư cách là thần tượng trong nhóm nhạc Arashi vào năm 1999, Matsumoto bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của anh trong vai diễn Teddy Duchamp cho bộ Stand by Me và từ đó, anh tiếp tục tham gia các dự án diễn xuất, và anh sở hữu một gia tài các vai diễn đa dạng, đa chiều ở cả lĩnh vực phim truyền hình và điện ảnh.[cần dẫn nguồn]
Tiểu sử
sửaMatsumoto sinh ngày 30 tháng 8 năm 1983 ở Tokyo, Nhật Bản.[1][2] Anh có một chị gái là fan hâm mộ của nhóm nhạc KinKi Kids.[6] Anh tốt nghiệp từ Horikoshi Gakuen vào tháng 3 năm 2002, là một trường Trung học Cơ sở chuyên đào tạo những tài năng có danh tiếng trong ngành giải trí Nhật.[7][8]
Do ảnh hưởng từ chị gái, Matsumoto quyết định nộp hồ sơ vào Johnny & Associates vào năm 1996 và được cố chủ tịch Johnny Kitagawa trực tiếp tuyển vào.[6] Với tài năng và sức thu hút như thế, Matsumoto thường được xem như là một tài năng nổi bật, ưu tú của J&A.[9]
Sự nghiệp âm nhạc
sửaHầu hết các bài nhạc của Matsumoto đều được soạn bởi đội ngũ soạn nhạc của Arashi, nhưng Matsumoto cũng có góp phần viết lời nhạc cho một số bài solo của anh như: "La Familia" (2004 Arashi! Iza, Now Tour!!)[cần dẫn nguồn], "Naked" (Dream "A" Live), và "Stay Gold" (The Digitalian).[10][11] Ngoài ra anh cũng giám sát quá trình soạn bài "DRIVE" (Are You Happy?) và cùng với các thành viên trong Arashi soạn lời cho các bài: "Fight Song", "Energy Song - Zekkōchō Chō!!!!", "5×10", và "5×20".[12][13][14][15][16]
Matsumoto bắt đầu tham gia đóng góp sản xuất các buổi biểu diễn từ đầu năm 2000 trở đi.[17] Dù anh bắt đầu từ và tập trung vào các buổi biểu diễn của Arashi là chính, vào năm 2021, Matsumoto là người đạo diễn chính cho buổi biểu diễn Johnny's Festival Thank you 2021 Hello 2022 cho nhiều nhóm thuộc Johnny & Associates, và anh cũng giúp tư vấn và đưa lời khuyên về phần sản xuất các buổi diễn cho các dàn em của mình như Hey! Say! JUMP vào năm 2014 và King & Prince vào năm 2018.[18][19][20] Anh chính thức được ghi nhận là người đạo diễn các buổi biểu diễn trong phần danh đề của Arashi Anniversary Tour 5×20 và Arafes 2020, và trên trang giới thiệu của Johnny's Festival Thank you 2021 Hello 2022.[18]
Là một người sản xuất các buổi biểu diễn, Matsumoto cũng luôn cố gắng đưa những sáng kiến mới trong các buổi biểu diễn. Vào năm 2005, anh cùng với đội ngũ sản xuất đã dựng sân khâu di động (moving stage) thành công.[21] Vào năm 2014 tại chuyến lưu diễn Arashi Live Tour 2014 The Digitalian, sau 3 năm nỗ lực tìm hiểu và thử nghiệm, anh và đội ngũ sản xuất đã thêm chức năng đổi màu qua bluetooth cho các penlight, giúp tạo nên một hiệu ứng độc đáo tại đây và các buổi biểu diễn sau này.[22]
Sự nghiệp diễn xuất
sửaKịch sân khấu
sửa- Stand by Me (1997)
- Eden no Higashi (2005)
- Byakuya no Onna Kishi (2006)
- Aa, Kōya (2011)
Phim truyền hình
sửa- Hoken Chōsa-in Shigarami Tarō no Jikenbo (1997)
- Bokura no yûki - Miman toshi (1997)
- Another Heart (1997)
- BOYS BE...Jr (1998)
- Hitsuyō no Nai Hito (1998)
- Nekketsu Ren'ai-dō: (1999)
- Kowai Nichiyōbi: Furugiya (1999)
- V no Arashi (1999)
- Shijō Saiaku no Dēto (2000)
- Mukai Arata no Dobutsu Nikki: Aiken Rosinante no Sainan (2001)
- Kindaichi shônen no jiken bo 3 (2001)
- Gokusen (2002)
- Gokusen Returns: Sōshūhen & Shiwasu no Yankumi SP (2002)
- Yoiko no Mikata (2003)
- Gokusen SP (2003)
- Kimi wa petto (2003)
- Hana yori Dango (2005)
- Propose (2005)
- Yonimo Kimyona Monogatari (2006)
- Hana yori Dango Returns (2007)
- Banbino! (2007)
- Myû no an'yo papa ni ageru (2008)
- Smile (2009)
- Saigo no yakusoku (2010)
- Wagaya no rekishi (2010)
- Kaibutsu-kun (2010)
- Natsu no koi wa nijiiro ni kagayaku (2010)
- Bartender (2011)
- Mou Yuukai Nante Shinai (2012)
- Lucky Seven (2012)
- Lucky Seven SP (2013)
- Hajimari no uta (2013)
- Shitsuren Chocolatier (2014)
- 99.9 ~ Keiji Senmon Bengoshi (99.9: Criminal Lawyer) (2016)
- 99.9 ~ Keiji Senmon Bengoshi – Season II (99.9: Criminal Lawyer– Season II) (2018)
- Hana Nochi Hare~Hanadan Next Season~ (2018)
- Eien no Nishipa (2019)
- Tonari no Chikara (2022)
- Dōsuru Ieyasu (2023)
Phim
sửa- Shinjuku Boy Detectives (1998)
- Pikanchi Life is Hard Dakedo Happy (2002)
- Pikanchi Life is Hard Dakara Happy (2004)
- Tokyo Tower (2005)
- Kiiroi Namida (2007)
- Boku wa imôto ni koi wo suru (2007)
- Kakushi toride no san akunin (2008)
- Hana yori Dango: Final (2008)
- Hidamari no kanojo (2013)
- Pikanchi Life is Hard Tabun Happy (2014)
- Naratâju (2017)
- 99.9 Criminal Lawyer: The Movie (2021)
Tham khảo
sửa- ^ a b “松本潤” (bằng tiếng Nhật). Johnny & Associates.
- ^ a b c “Jun Matsumoto Biography”. IMDb (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2021.
- ^ “PROFILE” (bằng tiếng Nhật). J Storm.
- ^ “GQ Men of the Year 2008”. GQ (bằng tiếng Nhật). ngày 16 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2009.
- ^ “GQ's Men of the Year: NIGO, MatsuJun, and more” (bằng tiếng Anh). Tokyograph. ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
- ^ a b c “ja:「99.9」で独り勝ち!嵐・松本潤が受けたジャニーズ特別待遇とは?” (bằng tiếng Nhật). Excite ニュース. ngày 24 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ “そして僕らは嵐になった Arashi Story 1980–2009”. Pia: 10–22. ngày 27 tháng 8 năm 2009.
- ^ Arashi no Shukudai-kun. ngày 17 tháng 3 năm 2007. NTV.
- ^ “POP! Goes the MatsuJun (or Lessons Learned from a Japanese Idol)” (bằng tiếng Anh). Asia Pacific Arts; Đại học California tại Los Angeles. ngày 2 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Dream "A" Live album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “The Digitalian album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
- ^ “Are You Happy? album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Love So Sweet single information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “Ura Ara BEST 2008-2011 album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “All the Best! 1999–2009 album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “5x20 All the Best!! 1999–2019 album information” (bằng tiếng Nhật). J Storm. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
- ^ “嵐のコンサート演出を支える松本潤 そのプロデュース能力を検証する” (bằng tiếng Nhật). ngày 14 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ a b Johnny's Festival Thank you 2021 Hello 2022 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2021.
- ^ 嵐・松本潤の演出指導は、Hey! Say! JUMPにどんな影響を与える? (bằng tiếng Nhật). ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ 嵐・松本潤、King & Princeのコンサート鑑賞後にアドバイス 永瀬廉「めちゃめちゃ見てるやん!」 (bằng tiếng Nhật). ngày 19 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ “ゴールデン2時間SP”. 関ジャム 完全燃SHOW. ngày 29 tháng 7 năm 2020. TV Asahi.
- ^ “嵐がファンを"操作"!” (bằng tiếng Nhật). TV Asahi. ngày 24 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2021.
Liên kết ngoài
sửa- Sơ lược tiểu sử trên J Storm
- Jun Matsumoto | Sơ lược tiểu sử trên Johnny's Net
- Matsumoto Jun trên IMDb
- Matsumoto Jun tại từ điển bách khoa của Anime News Network
- Jun Matsumoto trên trang TCM Movie Database