Mực xăm
Mực xăm là một loại chất lỏng hoặc gel có chứa sắc tố, được đưa vào lớp hạ bì của da để tạo ra hình ảnh vĩnh viễn. Thành phần của mực xăm bao gồm sắc tố (vô cơ hoặc hữu cơ), dung dịch mang (cồn hoặc nước) và phụ gia (chất bảo quản, chất điều chỉnh độ nhớt). Mực xăm được sử dụng trong xăm nghệ thuật, trang điểm vĩnh viễn và y tế. Tuy nhiên, mực xăm có thể gây ra phản ứng dị ứng, di chuyển sắc tố và một số thành phần có thể gây ung thư. Liên minh Châu Âu đã cấm một số sắc tố, trong khi FDA Hoa Kỳ chưa có quy định cụ thể. Xăm mình là một tập tục cổ xưa và mực xăm hiện đại phát triển sau khi máy xăm điện ra đời. Có ba loại mực xăm: vĩnh viễn, bán vĩnh viễn và tạm thời.
Thành phần của mực xăm chuyên nghiệp
sửaMực xăm được sản xuất với bảng màu đa dạng, có thể pha loãng hoặc kết hợp để tạo ra các màu sắc và sắc độ phong phú. Đa số nghệ sĩ xăm hình chuyên nghiệp sử dụng mực xăm được sản xuất sẵn (còn gọi là mực phân tán), trong khi một số nghệ sĩ tự pha chế mực bằng cách kết hợp bột màu khô với chất dẫn.[1]
Tại Hoa Kỳ, các nhà sản xuất mực xăm không bắt buộc phải tiết lộ thành phần hoặc chứng minh rằng danh sách thành phần được công bố tự nguyện là chính xác.[2] Công thức của họ có thể là độc quyền. Mực xăm từ các nhà sản xuất khác nhau rất khác nhau về công thức, chất lượng và độ an toàn.[3]
Sắc tố
sửaNhiều loại mực xăm dùng bột màu công nghiệp, loại dùng để nhuộm vải,[3] sơn ô tô,[4] hay in ấn.[5] Mực xăm xịn thì chủ yếu dùng chất tạo màu hữu cơ.[6] Người ta còn cho thêm kim loại nặng vào để điều chỉnh màu sắc.[3] Bột màu trong mực xăm có thể là các hạt rắn nhỏ xíu hoặc các phân tử riêng lẻ, ví dụ như titan dioxit hoặc oxit sắt.[6][2]
Màu sắc | Sắc tố |
---|---|
Đen | Có thể chứa: |
Trắng | Có thể chứa:
Những sắc tố này đã thay thế cho các sắc tố độc hại hơn như bari sulfat và chì trắng.[9] |
Đỏ | Có thể chứa: |
Cam | Có thể được coi là một sắc thái của đỏ[9] |
Vàng | Có thể chứa: |
Xanh lá | Có thể chứa: |
Xanh dương | Có thể chứa: |
Tím | Có thể chứa: |
Nâu | Có thể chứa oxide sắt,[2] chẳng hạn như đất son[9] |
Một số nguyên tố khác được tìm thấy với hàm lượng rất nhỏ trong một số loại mực bao gồm antimon, arsenic, beryli, selen,[14] và nhôm.[13] Titan dioxit hơi có tính mài mòn và có thể khiến các mảnh kim loại niken và chromi bị bong ra từ kim xăm và đi vào da.[15]
Các nhà sản xuất mực xăm thường pha trộn các sắc tố kim loại và/hoặc sử dụng các chất làm sáng màu (như chì hoặc titan) để giảm chi phí sản xuất.[16] Mực xăm bị nhiễm các chất gây dị ứng kim loại đã được biết là gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng, đôi khi nhiều năm sau đó, khi không có sẵn mực ban đầu để kiểm tra.[17]
Mực xăm phản quang
sửaMực dạ quang dùng trong xăm mình không tự phát sáng trong bóng tối mà chỉ phản ứng với tia UV, tạo hiệu ứng phát sáng dưới ánh đèn blacklight. Thành phần chính của loại mực này là các hạt nhựa siêu nhỏ chứa chất nhuộm dạ quang.[18] Mực dạ quang có thể gây kích ứng da và hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về độ an toàn của nó trong giới xăm hình.[19][20]
Mực phát sáng trong bóng tối
sửaMực xăm phát sáng trong bóng tối hấp thụ và giữ lại ánh sáng, sau đó phát sáng trong điều kiện tối thông qua quá trình lân quang. Chất photpho trong loại mực này có thể gây phát ban da và có thể gây ung thư,[19][21] và nhiều nghệ sĩ xăm hình cho rằng loại mực này không an toàn để sử dụng.[20]
Mực xăm truyền thống
sửaHình xăm cổ nhất trên thế giới được tìm thấy trên người băng Ötzi, có niên đại tận 5300 năm. Ngày xưa, người ta dùng bồ hóng hoặc than củi nghiền nhỏ để làm mực xăm. [22] Hình xăm truyền thống của người Ainu sử dụng bồ hóng làm chất màu, thể hiện những tín ngưỡng quan trọng liên quan đến bếp lửa trong gia đình.[23]
Xăm hình batok là kiểu xăm truyền thống của người Philippines. Ngày xưa, người ta chế mực xăm từ nhiều nguyên liệu khác nhau, ví dụ như lá cây cà chua giã nát trộn với bồ hóng và nước, mật lợn với bồ hóng, hay bồ hóng lấy từ gỗ nhựa cháy.[24] Có khi người ta còn lấy bồ hóng trộn với nước mía, ủ cho lên men một chút rồi mới dùng.[25] Bây giờ thì đơn giản hơn, chỉ cần hòa bồ hóng với nước lã trong gáo dừa là được.[26]
Phụ nữ Inuit có truyền thống kakiniit, hình xăm trong lịch sử được làm bằng muội đèn qulliq và mỡ hải cẩu[27][28] Trong sự hồi sinh của truyền thống này vào thế kỷ 21, những người thực hành sử dụng mực xăm được sản xuất công nghiệp.[29]
Trong nghệ thuật xăm hình horimono của Nhật Bản có kỹ thuật tebori, xăm bằng tay với mực sumi.[30] TLoại mực này được làm từ bồ hóng của một số loại gỗ đặc biệt, kết hợp với keo động vật, và phương pháp xăm này tạo ra màu đen ánh xanh lục trên da..[30]
Trong nghệ thuật xăm hình tā moko của người Māori, các chuyên gia đã chế tạo mực từ tro của các bộ phận cây có nhựa (như nhựa cây kauri) hoặc nấm sâu bướm, trộn với dầu thực vật.[31][32]
Tác động đến sức khỏe
sửaCác thành phần của mực xăm có thể gây ra phản ứng dị ứng trên da, bao gồm các sắc tố màu đỏ, xanh lá cây, vàng và xanh lam.[33] Mực màu, chẳng hạn như màu đỏ, dường như gây ra phản ứng dị ứng thường xuyên hơn mực đen, có thể là do một lượng nhỏ thủy ngân sunfua trong một số sắc tố màu đỏ[7][34][35]. Một số sắc tố màu vàng có chứa cadmium sulfide, một hợp chất nhạy sáng, và khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, điều này có thể gây viêm da do ánh sáng, mặc dù hiếm gặp.[34]
Mực xăm có thể bị nhiễm vi khuẩn, chẳng hạn như Mycobacterium chelonae, có thể gây nhiễm trùng da.[6]
Một số thành phần thường được sử dụng trong mực xăm có khả năng gây ung thư, ví dụ như muội than trong mực đen có thể chứa hydrocarbon thơm đa vòng.[7] Nhiều hạt trong mực xăm siêu nhỏ, dễ dàng chui vào tế bào và có thể gây ung thư.[2] Tia UV có thể khiến các sắc tố azo phân hủy thành amin thơm bậc một, cũng có thể gây ung thư.[3] Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2012 cho rằng số ca ung thư da do xăm hình rất ít, có thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.[36]
Sau khi xăm, một phần mực sẽ theo mạch máu và hệ bạch huyết đi khắp cơ thể, một số có thể được bài tiết hoặc lưu trữ ở nơi khác.[7] Các sắc tố mực xăm có thể di chuyển vào các hạch bạch huyết, bao gồm cả các nguyên tố độc hại trong mực như crom.[37] Cần có các nghiên cứu dài hạn để xác định xem các sắc tố trong hạch bạch huyết ở người có gây hại hay không.[38]
Chú thích
sửa- ^ Liou, Yujie Linda; Voller, Lindsey M.; Liszewski, Walter; Ericson, Marna E.; Siegel, Paul D.; Warshaw, Erin M. (2021). “Formaldehyde Release From Predispersed Tattoo Inks: Analysis Using the Chromotropic Acid Method”. Dermatitis. 32 (5): 327–332. doi:10.1097/DER.0000000000000663. ISSN 1710-3568. PMC 8500535. PMID 33273225.
- ^ a b c d e Ouellette, Jennifer (25 tháng 8 năm 2022). “Scientists explore chemistry of tattoo inks amid growing safety concerns”. Ars Technica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022.
- ^ a b c d e Everts, Sarah (15 tháng 8 năm 2016). “What chemicals are in your tattoo?”. Chemical & Engineering News. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.
- ^ Engel E, Santarelli F, Vasold R, và đồng nghiệp (2008). “Modern tattoos cause high concentrations of hazardous pigments in skin”. Contact Dermatitis. 58 (4): 228–33. doi:10.1111/j.1600-0536.2007.01301.x. PMID 18353031. S2CID 7057048.
- ^ Haugh, I. M.; Laumann, S. L.; Laumann, Anne E. (2015). “Regulation of Tattoo Ink Production and the Tattoo Business in the US”. Tattooed Skin and Health. Current Problems in Dermatology (bằng tiếng english). 48: 248–252. doi:10.1159/000369231. ISBN 978-3-318-02776-1. PMID 25833652.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ a b c Laux, Peter; Tralau, Tewes; Tentschert, Jutta; Blume, Annegret; Dahouk, Sascha Al; Bäumler, Wolfgang; Bernstein, Eric; Bocca, Beatrice; Alimonti, Alessandro; Colebrook, Helen; de Cuyper, Christa; Dähne, Lars; Hauri, Urs; Howard, Paul C; Janssen, Paul (tháng 1 năm 2016). “A medical-toxicological view of tattooing”. The Lancet (bằng tiếng Anh). 387 (10016): 395–402. doi:10.1016/S0140-6736(15)60215-X. PMID 26211826. S2CID 17080934.
- ^ a b c d Bäumler, Wolfgang (2015). “Absorption, Distribution, Metabolism and Excretion of Tattoo Colorants and Ingredients in Mouse and Man: The Known and the Unknown”. Tattooed Skin and Health. Current Problems in Dermatology (bằng tiếng english). 48: 176–184. doi:10.1159/000369222. ISBN 978-3-318-02776-1. PMID 25833641. S2CID 24930401.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Ross, James R.; Matava, Matthew J. (tháng 9 năm 2011). “Tattoo-Induced Skin "Burn" During Magnetic Resonance Imaging in a Professional Football Player”. Sports Health. 3 (5): 431–434. doi:10.1177/1941738111411698. ISSN 1941-7381. PMC 3445217. PMID 23016039.
- ^ a b c d e f g h i j k Forte, Giovanni; Petrucci, Francesco; Cristaudo, Antonio; Bocca, Beatrice (15 tháng 11 năm 2009). “Market survey on toxic metals contained in tattoo inks”. Science of the Total Environment (bằng tiếng Anh). 407 (23): 5997–6002. Bibcode:2009ScTEn.407.5997F. doi:10.1016/j.scitotenv.2009.08.034. PMID 19766292.
- ^ a b Kluger, Nicolas (21 tháng 4 năm 2021). “Nickel and tattoos: Where are we?”. Contact Dermatitis (bằng tiếng Anh). 85 (2): 136–140. doi:10.1111/cod.13869. hdl:10138/340396. ISSN 0105-1873. PMID 33880790. S2CID 233327648 – qua Wiley.
- ^ a b c d e f Devcic, Julie; Dussol, Manon; Collin-Faure, Véronique; Pérard, Julien; Fenel, Daphna; Schoehn, Guy; Carrière, Marie; Rabilloud, Thierry; Dalzon, Bastien (19 tháng 7 năm 2022). “Immediate and Sustained Effects of Cobalt and Zinc-Containing Pigments on Macrophages”. Frontiers in Immunology. 13: 865239. doi:10.3389/fimmu.2022.865239. ISSN 1664-3224. PMC 9343594. PMID 35928812.
- ^ Gaudron, Sophie; Ferrier-Le Bouëdec, Marie-Christine; Franck, Frederic; D'Incan, Michel (tháng 2 năm 2015). “Azo pigments and quinacridones induce delayed hypersensitivity in red tattoos”. Contact Dermatitis. 72 (2): 97–105. doi:10.1111/cod.12317. ISSN 1600-0536. PMID 25441375.
- ^ a b Wang, Xuying; Josefsson, Leila; Meschnark, Silvia; Lind, Marie-Louise; Emmer, Åsa; Goessler, Walter; Hedberg, Yolanda S. (5 tháng 6 năm 2021). “Analytical survey of tattoo inks—A chemical and legal perspective with focus on sensitizing substances”. Contact Dermatitis (bằng tiếng Anh). 85 (3): 340–353. doi:10.1111/cod.13913. ISSN 0105-1873. PMID 34089526. S2CID 235346709.
- ^ McGovern, Victoria (1 tháng 9 năm 2005). “Metal Toxicity: Tattoos: Safe Symbols?”. Environmental Health Perspectives. 113 (9): A590. doi:10.1289/ehp.113-a590a. PMC 1280436. S2CID 43239.
- ^ Schreiver, Ines; Hesse, Bernhard; Seim, Christian; Castillo-Michel, Hiram; Anklamm, Lars; Villanova, Julie; Dreiack, Nadine; Lagrange, Adrien; Penning, Randolph; De Cuyper, Christa; Tucoulou, Remi; Bäumler, Wolfgang; Cotte, Marine; Luch, Andreas (27 tháng 8 năm 2019). “Distribution of nickel and chromium containing particles from tattoo needle wear in humans and its possible impact on allergic reactions”. Particle and Fibre Toxicology. 16 (1): 33. doi:10.1186/s12989-019-0317-1. ISSN 1743-8977. PMC 710876. PMID 31451117.
- ^ Poon, Kelvin Weng Chun (2008). In situ chemical analysis of tattooing inks and pigments: modern organic and traditional pigments in ancient mummified remains (BS). University of Western Australia. tr. 97, 189, 191–192, 195–196. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2022.
- ^ Riedel, F; Aparicio-Soto, M; Curato, C; Thierse, HJ; Siewert, K; Luch, A (15 tháng 10 năm 2021). “Immunological Mechanisms of Metal Allergies and the Nickel-Specific TCR-pMHC Interface”. International Journal of Environmental Research and Public Health. 18 (20): 10867. doi:10.3390/ijerph182010867. PMC 8535423. PMID 34682608.
- ^ DeMello, Margo (30 tháng 5 năm 2014). Inked: Tattoos and Body Art around the World (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. tr. 57–58. ISBN 978-1-61069-076-8.
- ^ a b Bhattacharya, Surya (16 tháng 8 năm 2007). “Shining light on UV tattoos”. Toronto Star (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2022.
- ^ a b Ballard, Allison (13 tháng 6 năm 2006). “Invisible ink: Black-light tattoos are lighting up local clubs, but are they safe?”. Wilmington Star-News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2022.
- ^ Adamakos, Tess (2 tháng 1 năm 2019). “All You Need To Know About Black Light Tattoos, According to Tattoo Artists”. Inked (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2022.
- ^ Deter-Wolf, Aaron; Robitaille, Benoit; Riday, Daniel; Burlot, Aurelien; Jacobsen, Maya Sialuk (tháng 3 năm 2024). “Chalcolithic Tattooing: Historical and Experimental Evaluation of the Tyrolean Iceman's Body Markings”. European Journal of Archaeology: 1–22. doi:10.1017/eaa.2024.5.
- ^ Krutak, Lars (27 tháng 11 năm 2012). “Tattooing Among Japan's Ainu People”. Lars Krutak, Tattoo Anthropologist (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2022.
- ^ Salvador-Amores, Analyn (2012). “The Recontextualization of Burik (Traditional Tattoos) of Kabayan Mummies in Benguet to Contemporary Practices”. Humanities Diliman. 9 (1): 68–69.
- ^ Tan, Yvette (18 tháng 8 năm 2021). “There's a link between indigenous tattoos and agriculture”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Half a coconut shell (bao) where ink (fine charcoal powder and water) for tattooing is collected”. Pitt Rivers Museum. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2022.
- ^ Gaul, Ashleigh (tháng 9 năm 2014). “Between the Lines”. Up Here (bằng tiếng Anh). Up Here Publishing. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2022.
- ^ Allford, Jennifer (23 tháng 10 năm 2019). “Reclaiming Inuit culture, one tattoo at a time”. CTV News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2022.
- ^ Hughes, Zachariah (21 tháng 9 năm 2015). “Women's traditional chin tattoos are making a comeback in Alaska”. KTOO (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ a b Gordenker, Alice (24 tháng 11 năm 2020). “We Meet an Artist Carrying On Japan's Hand-Poked Tattoo Traditions”. Vice (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ Higgins, Rawinia (5 tháng 9 năm 2013). “Tā moko – Māori tattooing – Tā moko technology”. Te Ara - the Encyclopedia of New Zealand (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Ipu ngarahu (pigment container)”. Museum of New Zealand Collections Online. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Think before you ink: Tattoo risks”. Mayo Clinic (bằng tiếng Anh). 25 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2022.
- ^ a b Kaur, Ravneet Ruby; Kirby, William; Maibach, Howard (25 tháng 11 năm 2009). “Cutaneous allergic reactions to tattoo ink”. Journal of Cosmetic Dermatology (bằng tiếng Anh). 8 (4): 295–300. doi:10.1111/j.1473-2165.2009.00469.x. PMID 19958434. S2CID 8463825.
- ^ Forbat, Emily; Al-Niaimi, Firas (14 tháng 3 năm 2016). “Patterns of Reactions to Red Pigment Tattoo and Treatment Methods”. Dermatology and Therapy. 6 (1): 13–23. doi:10.1007/s13555-016-0104-y. ISSN 2193-8210. PMC 4799043. PMID 26972808.
- ^ Kluger, Nicolas; Koljonen, Virve (1 tháng 4 năm 2012). “Tattoos, inks, and cancer”. The Lancet Oncology (bằng tiếng English). 13 (4): e161–e168. doi:10.1016/S1470-2045(11)70340-0. ISSN 1470-2045. PMID 22469126.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Schreiver, Ines; Hesse, Bernhard; Seim, Christian; Castillo-Michel, Hiram; Villanova, Julie; Laux, Peter; Dreiack, Nadine; Penning, Randolf; Tucoulou, Remi; Cotte, Marine; Luch, Andreas (12 tháng 9 năm 2017). “Synchrotron-based ν-XRF mapping and μ-FTIR microscopy enable to look into the fate and effects of tattoo pigments in human skin”. Scientific Reports (bằng tiếng Anh). 7 (1): 11395. Bibcode:2017NatSR...711395S. doi:10.1038/s41598-017-11721-z. ISSN 2045-2322. PMC 5595966. PMID 28900193.
- ^ Onion, Amanda (25 tháng 9 năm 2017). “What Happens to Tattoo Ink After It's Injected into Your Skin?”. Live Science (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2022.
Đọc thêm
sửa- Serup, J.; Kluger, N.; Bäumler, W. biên tập (24 tháng 3 năm 2015). Tattooed Skin and Health. Current Problems in Dermatology (bằng tiếng Anh). 48. S. Karger AG. doi:10.1159/isbn.978-3-318-02777-8. ISBN 978-3-318-02776-1.