Mạnh Kiều Phương (giản thể: 孟乔芳; phồn thể: 孟喬芳; 1595 – 1654) tự Tâm Đình (心亭), người Hán quân Tương Hồng kỳ, là một tướng lĩnh vào những năm cuối thời Minh và đầu thời Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc đời

sửa

Mạnh Kiều Phương sinh năm 1595 tại huyện Lô Long, phủ Vĩnh Bình thuộc tỉnh Trực Lệ dưới triều Minh Thần Tông của nhà Minh. Cha ông là Mạnh Quốc Dụng (孟國用), từng nhậm chức đến Ninh Hạ Tổng binh quan của triều Minh. Bản thân Mạnh Kiều Phương cũng từng làm Phó tướng trong quân đội nhà Minh, tuy nhiên sau đó đã bị bãi chức.[1]

Đầu nhập quân Thanh

sửa

Tháng giêng năm 1630, Hoàng Thái Cực suất lĩnh quân Thanh đánh hạ phủ Vĩnh Bình. Mạnh Kiều Phương đã cùng các quan lại địa phương như Tri huyện Tương Dưỡng Sơ, Binh bị đạo Bạch Dưỡng Túy, Phó tướng Dương Văn Khôi và hơn 10 người khác đầu hàng quân Thanh. Hoàng Thái Cực đã phong Bạnh Dưỡng Túy làm Tuần phủ, Mạnh Kiều Phương và Tương Dưỡng Sơ làm Phó tướng, lệnh cho họ hiệp trợ Bối lặc Tế Nhĩ Cáp Lãng thủ vững Vĩnh Bình. Đến tháng 3, Bối lặc A Mẫn thay thế đóng giữ Vĩnh Bình để Tế Nhĩ Cáp Lãng dẫn quân về triều. Tháng 5 năm , quân Minh đến tập kích, A Mẫn không đánh trả được liền lệnh cho thuộc hạ bỏ thành mà chạy. Tuy nhiên trước khi rút quân, A Mẫn đã ra lệnh giết toàn bộ người Hán và quan lại nhà Minh đã đầu hàng trong thành bao gồm cả Bạnh Dưỡng Túy và Tương Dưỡng Sơ, chỉ có 3 người Mạnh Kiều Phương, Dương Văn Khôi và Dương Thanh Viễn được tha.[2] Sau khi theo quân Thanh trở về Liêu Dương, Mạnh Kiều Phương được phong làm Hán quân Ngưu lục Ngạch chân.[a]

Năm 1631, Hoàng Thái Cực thiết lập Lục bộ, phong Mạnh Kiều Phương làm Hình bộ Thừa chính, ban cho thế chức Nhị đẳng Khinh xa đô úy. Đến năm thứ 3 sau khi Hoàng Thái Cực lên ngôi hoàng đế tức năm Sùng Đức thứ 3 (1638), triều đình nhà Thanh tiến hành cải tổ bộ máy quan chức, Mạnh Kiều Phương được điều làm Hình bộ Tả Tham chính. Một năm sau, Hán quân được chia thành bốn kỳ, Mạnh Kiều Phương được phong làm Hồng kỳ Mai lặc Ngạch chân.[b] Năm 1642, Mạnh Kiều Phương theo quân Thanh tấn công quân Minh, bao vây Cẩm Châu, cùng Đô thống Kim Lệ đánh hạ Tháp Sơn thành. Lúc bấy giờ, triều đình nhà Thanh tổ chức lại các Ngưu lục Hán quân và phân vào Bát kỳ, Hán quân Bát kỳ chính thức trở thành một bộ phận của Bát kỳ.[3] Mạnh Kiều Phương được điều làm Tương Hồng kỳ Mai lặc Ngạch chân, từ đó mà ông cũng thuộc hộ tịch Hán quân Tương Hồng kỳ.

Dọn sạch Quan Trung

sửa

Năm 1644, quân Thanh nhập quan, Mạnh Kiều Phương được phong làm Hình bộ Tả Thị lang. Một năm sau, ông được điều làm Binh bộ Hữu Thị lang kiêm Hữu phó Đô ngự sử và Tổng đốc Thiểm Tây. Đương thời, Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên, đạo tặc ở Quan Trung (lưu vực sông Vị, thuộc Thiểm Tây) cũng nổi dậy khắp nơi, phản tướng Hạ Trân tập kích đánh chiếm Hán Trung, Hưng An (nay thuộc An Khang, Thiểm Tây). Thuận Trị Đế phong Hà Lạc Hội làm Định Tây Đại tướng quân, trấn thủ Tây An, Hà Đạo Nam, thảo phạt Định Tây, bình định thổ khấu.

Năm 1646, Thuận Trị Đế phái Túc Thân vương Hào Cách suất quân tiến đánh Tứ Xuyên, Hà Lạc Hội đưa quân từ Định Tây tiến vào Tứ Xuyên, Mạnh Kiều Phương cũng đưa quân trực thuộc hiệp trợ. Lúc bấy giờ, ở Trường An có một người là Hồ Thủ Long lợi dụng tà đạo mê hoặc dân chúng, âm mưu gây rối. Mạnh Kiều Phương đã phái phó tướng là Trần Đức bắt giết Hồ Thủ Long, trả tự do cho những nạn nhân bị Hồ Thủ Long cưỡng chế nghe theo. Cũng trong năm này, Hạ Trân cùng Tôn thủ Pháp, Hồ Hướng Hóa dùng 7 vạn quân xâm phạm Tây An. Hà Lạc Hội chủ trương thủ thành, Mạnh Kiều Phương liền phái Trần Đức trấn thủ cổng phía Tây, Phó tướng Nhậm Trân thủ cổng phía Bắc. Lúc này, Lý Quốc Hàn dẫn quân đánh tới, Hạ Trân thất bại bỏ chạy. Tháng 10, Mạnh Kiều Phương được lệnh hỗ trợ Túc vương Hào Cách đánh dẹp phản quân, thành công giành được Long An (nay thuộc Bình Vũ, Tứ Xuyên).

Một năm sau, Mạnh Kiều Phương dẫn quân chinh phạt Vũ Đại Định, phái bộ tướng Nhậm Trân tiêu diệt nhóm người Bạch Thiên Tước. Lúc này, Lưu Phương Danh tiến đánh Ninh Hạ, Trần Đức giành được Trấn Nguyên, một vùng phía tây bắc Cố Nguyên đều được bình định. Mạnh Kiều Phương liền phái các tướng lĩnh Nhậm Trân, Trần Đức tiến đánh Hưng An, thảo phạt Hạ Trân. Quân dưới trướng Mạnh Kiều Phương liên tiếp chiến thắng phản quân ở nhiều nơi, cuối cùng bình định Hưng An. Cùng năm, Mã Đức nổi dậy làm loạn ở Ninh Hạ, giết Tuần phủ Ninh Hạ là Tiêu An Dân, Mạnh Kiều Phương liền phái Mã Trữ hội hợp với binh lính Ninh Hạ cùng nhau thảo phạt. Mã Trữ đuổi đến Hà Nhân Bình thì giết được Mã Đức. Mạnh Kiều Phương tiếp tục phái các tướng lĩnh Trương Dũng, Lưu Hữu Nguyên tiến đánh Thiết Giác thành, bắt sống Hạ Hoành Khí, Lý Minh Nghĩa, lại lệnh cho Trần Đức chiêu hàng Chiết Tự Minh của Thanh Thủy trại, Cao Nhất Tường của Lộc Lô trại, chém đầu Trương Quý Nhân của Thiên Phong trại, dọn sạch đạo tặc ở Quan Trung.

Những năm cuối đời

sửa

Năm Thuận Trị thứ 7 (1650), Mạnh Kiều Phương dựa vào công lao mà được phong làm Binh bộ Thượng thư, tiến phong Nhất đẳng A Đạt Cáp Cáp Phiên.[c] Về sau, ông liên tiếp tiêu diệt các nhóm giặt cướp trên các vùng núi tại Hưng An, Bắc Sơn, Lạc Nam, Tử Dương, lại thượng tấu lên triều đình xin miễn trừ thuế khóa lao dịch tại Thiểm Tây, đồng thời tiến hành đồn điền tại các khu vực Duyên Khánh, Bình Cố nhằm bổ sung quân lương. Thuận Trị Đế liền phong ông làm Tam đẳng A Tư Cáp Ni Cáp Phiên,[d] ban hàm Thái tử Thái bảo.

Gia đình

sửa
  • Cha: Mạnh Quốc Dụng (孟國用) từng làm quan dưới thời nhà Minh, làm đến Ninh Hạ Tổng binh quan
  • Em trai: Mạnh Kiều Vinh, Mạnh Kiều Mĩ
  • Con trai: Mạnh Hùng Thần, làm đến Đinh Châu Tri phủ
  • Con nuôi:
    • Mạnh Hùng Phi, con trai Mạnh Kiều Vinh, làm đến Chiết Giang đạo Giám sát Ngự sử.
    • Mạnh Hùng Bật, con trai một người anh trong tộc là Mạnh Ứng Hiền, tập phong Tam đẳng A Tư Cáp Ni Cáp Phiên.

Chú thích

sửa
  1. ^ Theo Ngưu lục chế của người Nữ Chân, 300 hộ = 1 Ngưu lục, 5 Ngưu lục = 1 Giáp lạt, 5 Giáp lạt = 1 Cố Sơn. Đứng đầu mỗi đơn vị này là Ngạch chân (nghĩa là chủ). Năm 1660, Ngưu lục Ngạch chân (牛彔额真, tiếng Mãn: ᠨ᠋ᡳᡵᡠ
    ᡝᠵᡝᠨ
    , Möllendorff: niru ejen) được định danh trong Hán ngữ là Tá lĩnh.
  2. ^ Mai lặc Ngạch chân (Meiren-i Ejen) là một chức quan thời Thanh sơ, được thiết lập trong biên chế của Bát kỳ, đứng đầu một "mai lặc", quản lý 10 "ngưu lục". Năm 1634, Mai lặc Ngạch chân được đổi tên thành Mai lạc Chương kinh, đến năm 1660 được phiên sang tiếng Hán tương đương là Phó Đô thống.
  3. ^ Năm 1736, A Đạt Cáp Cáp Phiên (阿达哈哈番, tiếng Mãn: ᠇ᡩᠠᡥᠠ
    ᡥᠠᡶᠠᠨ
    , chuyển tả: adaha hafan) được định danh trong Hán ngữ là Khinh xa đô úy.
  4. ^ A Tư Cáp Ni Cáp Phiên (阿思哈尼哈番, tiếng Mãn: ᠠᠰᡥᠠᠨ ‍ᡳ
    ᡥᠠᡶᠠᠨ
    , chuyển tả: ashan-i hafan), nguyên nghĩa là "Phó quan". Năm 1736, được định danh trong Hán ngữ là Nam tước.

Tham khảo

sửa

Nguồn

sửa
  • Hummel, Arthur W. Sr (2018). Eminent Chinese of the Qing Period: 1644-1911/2 (bằng tiếng Anh). Berkshire Publishing Group. ISBN 9781614728498.
  • Chiêu Liên (1980). 啸亭杂录 [Khiếu đình tạp lục] (bằng tiếng Trung). Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101017519.
  • Tạ Tuyển Tuấn, 謝選駿 (tháng 10 năm 2002). 帝國時代諸子 [Những người con thời đại Đế Quốc]. 黃花岡雜誌 [Tạp chí Hoằng Hoa Cương] (bằng tiếng Trung). Sở nghiên cứu lịch sử hiện đại Trung Quốc (3): 86–101. ISSN 1534-2662.