Máy bay chiến đấu không người lái

Máy bay chiến đấu không người láiphương tiện bay không người lái có chức năng quân sự như tấn công và trinh sát trên chiến trường.[1][2][3] Tuy không có người lái trên máy bay, song máy bay chiến đấu này vẫn có người điều khiển theo thời gian thực thông qua một cổng radio từ xa.[4] Mức độ tự động hóa tùy thuộc vào từng loại cụ thể.

Một trong những khám phá sớm nhất về khái niệm máy bay không người lái chiến đấu là của Lee De Forest, nhà phát minh đầu tiên của thiết bị vô tuyến và U. A. Sanabria, một kỹ sư truyền hình. Họ đã trình bày ý tưởng của mình trong một bài báo xuất bản năm 1940 trên tờ Popular Mechanics.[5] Máy bay không người lái quân sự hiện đại được biết đến ngày nay là sản phẩm trí tuệ của John Stuart Foster Jr., một nhà vật lý hạt nhân và là cựu giám đốc của Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore (sau đó được gọi là Phòng thí nghiệm Bức xạ Lawrence).[6] Năm 1971, Foster là một người đam mê máy bay mô hình và nảy ra ý tưởng rằng sở thích này có thể được áp dụng để chế tạo vũ khí.[6] Ông vạch ra các kế hoạch và đến năm 1973, DARPA (Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng) đã chế tạo hai nguyên mẫu có tên "Prairie" và "Calera". Chúng được cung cấp năng lượng từ một động cơ máy cắt cỏ đã được sửa đổi và có thể bay trên không trong hai giờ đồng hồ khi mang theo một vật nặng 28 pound (13 kg).[6]

Trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel đã sử dụng máy bay không người lái không vũ trang Ryan Firebee của Hoa Kỳ nhằm dụ Ai Cập phóng hết kho tên lửa phòng không. Nhiệm vụ này đã hoàn thành mà không có thương tích nào cho các phi công Israel, những người đã sớm khai thác được hệ thống phòng thủ đã cạn kiệt của Ai Cập. Vào cuối những năm 1970 và 1980, Israel đã phát triển ScoutPioneer, thể hiện sự chuyển hướng sang mẫu UAV nhẹ hơn, kiểu tàu lượn được sử dụng ngày nay. Israel đi tiên phong trong việc sử dụng máy bay không người lái (UAV) để giám sát thời gian thực, chiến tranh điện tử và mồi nhử.[7][8][9] Hình ảnh và khả năng giải mã radar do các UAV này cung cấp đã giúp Israel vô hiệu hóa hoàn toàn hệ thống phòng không của Syria trong Chiến dịch Mole Cricket 19 khi bắt đầu Chiến tranh Liban 1982, không có phi công nào bị bắn rơi.[10]

Vào cuối những năm 1980, Iran đã triển khai một máy bay không người lái được trang bị sáu quả đạn RPG-7 trong Chiến tranh Iran–Iraq.[11]

Ấn tượng với thành công của Israel, Mỹ đã nhanh chóng mua một số UAV, và các hệ thống HunterPioneer của họ là sản phẩm bắt nguồn trực tiếp từ các mẫu của Israel. 'Cuộc chiến UAV' đầu tiên là Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất: theo báo cáo của Bộ Hải quân tháng 5 năm 1991: "Ít nhất một UAV luôn bay trên không trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc." Sau khi Chiến tranh vùng Vịnh thể hiện thành công tiện ích của nó, quân đội toàn cầu đã đầu tư rộng rãi vào việc phát triển UAV chiến đấu trong nước.[12] Vụ "tiêu diệt" đầu tiên của UAV Mỹ là vào ngày 7 tháng 10 năm 2001, tại Kandahar.[13]

Trong những năm gần đây, Mỹ đã tăng cường sử dụng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào các mục tiêu ở nước ngoài và các nơi khác như một phần của cuộc chiến chống khủng bố. Vào tháng 1 năm 2014, ước tính có 2.400 người đã chết vì các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ trong 5 năm.[14] Vào tháng 6 năm 2015, tổng số người chết của bởi các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ ước tính vượt quá 6.000.[15]

Vào năm 2020, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đầu tiên sử dụng máy bay tấn công không người lái trong một cuộc tấn công phối hợp lớn trên chiến trường thông thường khi họ tấn công các lực lượng ở Syria. Chúng được sử dụng để tấn công các vị trí của đối phương, che chắn cho lực lượng mặt đất và trinh sát pháo binh.[16] Máy bay không người lái được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020 giữa AzerbaijanArmenia.[17] Việc Azerbaijan sử dụng máy bay không người lái TB2 rẻ hơn của Thổ Nhĩ Kỳ được coi là rất quan trọng đối với chiến thắng của họ trước lực lượng Armenia.[20] Máy bay không người lái cũng được sử dụng rộng rãi trong cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraina 2022-2023.[18] Việc sử dụng máy bay không người lái mang lại lợi thế về chi phí: “Mọi người đang sử dụng máy bay không người lái nhỏ, chẳng hạn như loại bạn có thể mua tại JB Hi-Fi với giá 2000 đô la, gài lựu đạn vào chúng và bay qua đám đông hoặc xe tăng rồi thả lựu đạn. Về cơ bản, bạn có thể chế tạo một cỗ máy trị giá 3000 đô la để phá hủy một thiết bị trị giá 5 triệu đô la mà kẻ thù của bạn có.”[19]

Một nghiên cứu năm 2022 đánh giá tác động của UCAV đối với chiến tranh cho thấy máy bay không người lái rất dễ bị hệ thống phòng không và tác chiến điện tử tấn công, đồng thời máy bay không người lái chỉ có thể được sử dụng hiệu quả nếu chúng có sự hỗ trợ từ các tài sản cơ cấu lực lượng khác. Nghiên cứu kết luận rằng UCAV sẽ không tự nó có tác động mang tính cách mạng đối với chiến tranh.[20]

Hình ảnh

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ Austin, Reg (2010). Unmanned aircraft systems: UAVs design, development and deployment (bằng tiếng Anh). Chichester: Wiley. ISBN 978-0-470-05819-0.
  2. ^ “Drone warfare: The death of precision”. Bulletin of the Atomic Scientists (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2017.
  3. ^ Kennedy, Caroline; Rogers, James I. (ngày 17 tháng 2 năm 2015). “Virtuous drones?”. The International Journal of Human Rights. 19 (2): 211–227. doi:10.1080/13642987.2014.991217. ISSN 1364-2987. S2CID 219639786.
  4. ^ Dowd, Alan. “Drone wars: risks and warnings”. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
  5. ^ "Robot Television Bomber" Popular Mechanics June 1940
  6. ^ a b c Fred Kaplan (ngày 7 tháng 6 năm 2013). “The World as Free-Fire Zone”. MIT Technology Review. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2013.
  7. ^ “A Brief History of UAVs”. ngày 22 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ “Russia Buys A Bunch Of Israeli UAVs”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013.
  9. ^ Azoulai, Yuval (ngày 24 tháng 10 năm 2011). “Unmanned combat vehicles shaping future warfare”. Globes. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013.
  10. ^ Levinson, Charles (ngày 12 tháng 1 năm 2010). “Israeli Robots Remake Battlefield”. The Wall Street Journal. tr. A10. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  11. ^ Haghshenass, Fariborz (tháng 9 năm 2008), “Iran's Asymmetric Naval Warfare” (PDF), Policy Focus, The Washington Institute for Near East Policy (87), tr. 17, lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013
  12. ^ “UAV evolution – how natural selection directed the drone revolution”. ngày 15 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2013.[nguồn không đáng tin?]
  13. ^ Michel, Arthur Holland (ngày 17 tháng 12 năm 2015). “How Rogue Techies Armed the Predator, Almost Stopped 9/11, and Accidentally Invented Remote War”. Wired. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2015.
  14. ^ “The Toll Of 5 Years Of Drone Strikes”. The Huffington Post. ngày 24 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2014.
  15. ^ Ed Pilkington (ngày 17 tháng 6 năm 2015). “Former US military personnel urge drone pilots to walk away from controls”. TheGuardian.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2015.
  16. ^ Turkish drones, Greek challenges
  17. ^ Shaikh, Shaan; Rumbaugh, Wes (ngày 8 tháng 12 năm 2020). “The Air and Missile War in Nagorno-Karabakh: Lessons for the Future of Strike and Defense”.
  18. ^ “UK wants new drones in wake of Azerbaijan military success”. TheGuardian.com. ngày 29 tháng 12 năm 2020.
  19. ^ “Homegrown defence company helping Ukraine take out Russian drones”. Australian Financial Review. ngày 15 tháng 5 năm 2022. |date=ngày 15 tháng 5 năm 2022
  20. ^ Calcara, Antonio; Gilli, Andrea; Gilli, Mauro; Marchetti, Raffaele; Zaccagnini, Ivan (2022). “Why Drones Have Not Revolutionized War: The Enduring Hider-Finder Competition in Air Warfare”. International Security. 46 (4): 130–171. doi:10.1162/isec_a_00431. ISSN 0162-2889. S2CID 248723656.