Luật quốc tịch Philippines

lịch sử và quy định của quốc tịch Philippines

Luật quốc tịch Philippines quy định các điều kiện về quốc tịch Philippines. Hai văn bản pháp lý chính quy định về quốc tịch Philippines là Hiến pháp Philippines năm 1987 và Luật nhập tịch sửa đổi năm 1939.

Hiến pháp Philippines
Điều IV: Quốc tịch
Ủy ban lập hiến
Văn bảnTrang web chính thức
Phạm vi áp dụngPhilippines
Ban hành bởiTrưng cầu dân ý hiến pháp Philippines 1987
Ngày thông qua2 tháng 2 năm 1987[1]
Ngày hiệu lực2 tháng 2 năm 1987[1]
Trạng thái: Hiện hành

Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Philippines thì có quốc tịch Philippines. Người nước ngoài có thể nhập tịch Philippines nếu đã cư trú ở Philippines từ 10 năm trở lên, sở hữu bất động sản, biết tiếng Anh hoặc tiếng Tây Ban Nha cộng thêm một ngôn ngữ của Philippines và có phẩm chất tốt.

Trước kia, công dân Philippines có quốc tịch Hoa Kỳ trong thời kỳ là lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ. Vào thời thuộc Mỹ, trẻ em sinh ra tại Philippines thì có quốc tịch Philippines ngay cả khi cha mẹ là người nước ngoài. Luật quốc tịch Philippines hiện được thi hành dựa trên nguyên tắc quyền huyết thống.

Lịch sử

sửa

Thời kỳ thuộc Tây Ban Nha

sửa

Quần đảo Philippines sáp nhập vào Đế quốc Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 16.[2] Không có quy định chính thức nào cho người Philippines cho đến khi Bộ luật dân sự Tây Ban Nha có hiệu lực tại Philippines vào ngày 8 tháng 12 năm 1889.[3]

Bộ luật dân sự Tây Ban Nha quy định rằng trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Tây Ban Nha (bao gồm Philippines) hoặc sinh ra ở nước ngoài có cha hoặc mẹ là người Tây Ban Nha, hoặc trẻ em được phát hiện sớm nhất là trên lãnh thổ Tây Ban Nha thì có quốc tịch Tây Ban Nha. Ngược lại, nếu đứa trẻ không có cha hoặc mẹ mang quốc tịch Tây Ban Nha thì không mang quốc tịch Tây Ban Nha trừ phi đã nhập tịch.[4][5]

Cha mẹ có thể cho con chưa đến tuổi 14 nhập tịch qua sổ hộ tịch địa phương. Nếu cha mẹ có con đã đủ tuổi 14 trở lên hoặc khuyết tật thì cha mẹ phải đăng ký giám định để con có thể nhập tịnh Tây Ban Nha thông qua thủ tục đã nêu, còn con thành niên (từ 18 tuổi trở lên) chưa nhập tịch Tây Ban Nha thì có thể tự nhập tịch cũng theo thủ tục đó ít nhất là một năm sau khi đến độ tuổi.[4][5]

Vì trước ngày ban bố, Bộ luật dân sự Tây Ban Nha không được áp dụng trên lãnh thổ quần đảo Philippines nên các địa phuơng không lưu trữ hộ tịch để đăng ký nhập tịch. Vấn đề này đã được xét tới trong pháp luật Philippines sau này.[5]

Thời kỳ thuộc Mỹ

sửa

Vào năm 1898, sau Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha, Tây Ban Nha nhượng lại các thuộc địa Philippines, Puerto Rico và đảo Guam cho Hoa Kỳ.[6] Theo Hiệp định Paris, Quốc hội Hoa Kỳ có quyền quyết định quốc tịch của người bản địa tại Philippines và các vùng lãnh thổ mới chuyển nhượng khác, còn những người sinh ra trên Bán đảo Iberia cư trú trên quần đảo Philippines có quyền giữ quốc tịch Tây Ban Nha.[7]

Năm 1902, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật tổ chức Philippines, quy định quốc tịch riêng cho người Philippines. Những người Tây Ban Nha cư trú tại Philippines từ ngày 11 tháng 4 năm 1899 tính cho đến khi đạo luật được thông qua trở thành công dân Philippines, và con cháu của họ cũng trở thành công dân Philippines.[8] Người Philippines bản địa đã rời khỏi Philippines trước khi đạo luật được thông qua thì giữ quốc tịch Tây Ban Nha.[9] Người nước ngoài có thể được nhập tịch Philippines nếu có đủ các điều kiện được quy định tại Luật nhập tịch sửa đổi 1939. Đạo luật quy định đơn xin nhập tịch phải được Tòa án sơ thẩm xét duyệt tại tỉnh nơi họ đã cư trú ít nhất được một năm.[10] Phụ nữ Philippines kết hôn với nam giới nước ngoài và nhập tịch của chồng thì mất quốc tịch Philippines.[11]

Khi dấy lên mối quan ngại về việc người Trung Quốc có thể lợi dụng Philippines để lách luật nhập cư vào Hoa Kỳ, chính quyền liên bang đã chỉnh sửa lại Đạo luật bài xích người Hoa vào năm 1902. Đạo luật sau sửa đổi chỉ cho phép người gốc Hoa nhập cảnh vào Philippines nếu đã hoặc đang lưu trú tại Philippines hoặc đang làm việc trong các ngành nghề được cho phép.[12] Mãi đến năm 1943, Đạo luật mới được bãi bỏ.[13]

Quốc tịch Hoa Kỳ

sửa

Vào thời thuộc Mỹ, Hiến pháp Hoa Kỳ không được áp dụng đầy đủ trên quần đảo Philippines do tình trạng là một lãnh thổ chưa hợp nhất.[6][14] Công dân Philippines có quốc tịch Hoa Kỳ nhưng không được hưởng đầy đủ các quyền công dân, ví dụ như quyền đầu phiếu trong các cuộc bầu cử liên bang, tiểu bang và địa phương.[15] Mặc dù vậy, công dân Philippines cũng không được coi là người nước ngoài theo pháp luật Hoa Kỳ và thường được miễn các giới hạn nhập cảnh[16] trong khi hầu như tất cả người châu Á khác đều bị cấm nhập cảnh vào Hoa Kỳ, ngoại trừ người Philippines gốc Hoa bị cấm nhập cảnh theo Đạo luật bài xích người Hoa.[17] Công dân Philippines sinh sống tại Hoa Kỳ chỉ được hưởng các quyền công dân Hoa Kỳ đầy đủ nếu phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ vì pháp luật đương thời chỉ cho phép "người da trắng, người gốc Phi hoặc hậu duệ của các chủng tộc bản địa ở Tây Bán cầu", quân nhân và cựu chiến binh được nhập tịch với quyền công dân đó.[18]

Số lượng người Philippines sinh sống ở Hoa Kỳ tăng từ 3.000 người vào năm 1910 lên 110.000 người vào năm 1930.[19] Các công dân Philippines được cấp hộ chiếu Hoa Kỳ và được bảo hộ như công dân Hoa Kỳ khi đi nước ngoài.[20] Năm 1934, Đạo luật Tydings–McDuffie được ban hành, bắt đầu giai đoạn Hoa Kỳ chuẩn bị trao trả độc lập cho Philippines. Đạo luật quy định công dân Philippines là người nước ngoài và chỉ cho phép 50 công dân Philippines được nhập cảnh vào Hoa Kỳ mỗi năm, làm giảm số lượng người Philippines nhập cư vào Hoa Kỳ từ hơn 36.000 người vào năm 1931 xuống chỉ còn 72 người vào năm 1937. Tuy nhiên, công dân Philippines đã nhập cảnh vào Hoa Kỳ không bị trục xuất và không bị hạn chế quyền sở hữu tài sản như người nước ngoài. Sau khi Philippines được trao độc lập vào năm 1946, công dân Philippines tại Hoa Kỳ mất quốc tịch Hoa Kỳ nhưng vẫn được tiếp tục cư trú vì đã nhập cảnh từ một lãnh thổ cũ của Hoa Kỳ.[21]

Quyền nơi sinh

sửa

Sự thiếu sót và không rõ ràng của luật quốc tịch áp dụng trước năm 1898 đã được xét tới khi Tòa án Tối cao Philippines xét xử vụ Tranquilino Roa kiện Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan Quần đảo vào năm 1912, phán quyết rằng một người sinh ra có cha là người Trung Quốc và mẹ là người Philippines trước khi Bộ luật dân sự Tây Ban Nha được áp dụng tại Philippines là công dân Philippines.[5]

Vụ việc được xét xử dưới tình trạng là trước ngày 8 tháng 12 năm 1889 thì không xác định rằng liệu trẻ em sinh ra ở Philippines thì có quốc tịch Tây Ban Nha hay không. Vấn đề này được nêu ra trong Bộ luật dân sự Tây Ban Nha khi ban bố, thêm nữa bộ luật còn được áp dụng hồi tố cho trẻ em sinh ra trước thời gian ban hành. Theo như bộ luật, người khởi kiện được coi là người Trung Quốc[22] do đã lựa chọn quốc tịch của cha, và người đó sẽ có quyền nhập tịch Tây Ban Nha ít nhất một năm sau khi trưởng thành, nhưng lại không thể thực hiện dưới các điều khoản của bộ luật do sự thay đổi chủ quyền khi Hoa Kỳ tiếp quản quần đảo từ Tây Ban Nha vào năm 1898. Thừa nhận điều này, Tòa án Tối cao xác định rằng việc nhập tịch Philippines không phụ thuộc vào sự thay đổi chủ quyền. Hơn nữa, nguyên tắc quyền nơi sinh tại Hoa Kỳ được áp dụng tại Philippines sau khi Luật Tổ chức Philippines có hiệu lực nên trẻ em sinh ra ở Philippines trong thời gian này được tính là công dân Philippines.[5] Ngoài ra, pháp lệnh của Nghị viện Philippines đã đề cập đến "những người được nhận là công dân quần đảo Philippines khi sinh ra", và được Toàn quyền Philippines và các tòa án địa phương hiểu là thiết lập quyền nơi sinh theo như Tu chính án thứ 14 Hiến pháp Hoa Kỳ.[23]

Năm 1935, trong giai đoạn Hoa Kỳ chuẩn bị trao trả độc lập cho Philippines, một uỷ ban lập hiến đã được thành lập để soạn thảo Hiến pháp Philippines. Hiến pháp năm 1935 quy định người nào có quốc tịch Philippines khi hiến pháp được ban hành, trẻ em sinh ra ở Philippines có cha mẹ là người nước ngoài nhưng từng làm việc trong cơ quan nhà nước, trẻ em có cha là công dân Philippines hoặc trẻ em có mẹ là công dân Philippines và đã chọn nhập tịch Philippines sau khi đến tuổi trưởng thành thì đều là công dân Philippines.[24] Các nhà lập pháp không thừa nhận án lệ về quyền nơi sinh và cho rằng việc sinh ra ở Philippines thôi là không đủ để có quốc tịch Philippines. Mặc dù ủy ban lập hiến rõ ràng ưu tiên gia nhập quốc tịch dưa trên nguyên tắc huyết thống hơn là, nhưng các phán quyết sau này xác định rằng ủy ban lập hiến không bãi bỏ án lệ vụ án Roa kiện Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan Quần đảo và duy trì quyền nơi sinh.[25]

Thời kỳ độc lập

sửa

Philippines được trao trả độc lập vào năm 1946. Năm 1947, Tòa án Tối cao Philippines bãi bỏ án lệ vụ án Tranquilino Roa kiện Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan Quần đảo trong vụ Tam Chong kiện Bộ trưởng Bộ Lao động, phán quyết rằng hầu hết các quyền về nơi sinh sẽ không được chấp thuận tại Philippines qua hệ thống luật pháp mới kể từ khi Hiến pháp năm 1935 được ban hành hoặc qua việc áp dụng Tu chính án thứ 14 Hiến pháp Hoa Kỳ tại Philippines.[26] Kể từ khi có án lệ này, luật quốc tịch Philippines chủ yếu áp dụng nguyên tắc quyền huyết thống.[27]

Tuy quy định pháp luật về các điều kiện nhập tịch phần lớn rõ ràng và tuơng đối không khó khăn nhưng các phán quyết của Tòa án Tối cao ngay sau khi Philippines được trao độc lập đã tạo ra các thủ tục rườm rà đối với việc nhập tịch Philippines. Ví dụ, Tòa án Tối cao xác định vào năm 1948 rằng không cần phải có giấy xin nhập tịch vì cho rằng những giấy tờ này đã bị thất lạc trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng lại yêu cầu điều kiện tiên quyết này vào năm 1961 mà ngoại lệ duy nhất là nếu người xin nhập tịch sinh ra và được giáo dục tại Philippines và con cũng được giáo dục tiểu học và trung học tại Philippines. Các quyết định tiếp theo của toà án vào thập niên 1950 cũng xác định rằng những trường hợp khiến con không thể đi học tại một trường học Philippines, bao gồm trường hợp con bị đuổi học do kết hôn hoặc con không thể đi học do bị giam giữ trong thời chiến, không phải là ngoại lệ đối với điều kiện con của người xin nhập tịch phải được giáo dục tại Philippines.[28]

Sau khi tuyên bố thiết quân luật vào năm 1972, Ferdinand Marcos đã ban hành hiến pháp mới vào năm 1973. Hiến pháp năm 1973 giữ nguyên các điều khoản về quốc tịch của Hiến pháp năm 1935 nhưng bãi bỏ yêu cầu trẻ em có mẹ là công dân Philippines và cha là người nước ngoài phải chọn nhập tịch Philippines khi đến tuổi trưởng thành. Hiến pháp năm 1973 cũng cho phép phụ nữ Philippines kết hôn với người nước ngoài giữ quốc tịch Philippines ngay cả khi đã nhập tịch của chồng. Từ khi Hiến pháp năm 1987 có hiệu lực, trẻ em sinh ra có mẹ là công dân Philippines trước ngày 17 tháng 1 năm 1973 phải chọn nhập tịch Philippines.[29]

Từ cuối thập niên 1980, người Philippines ở nước ngoài được tạo điều kiện cho về nước nhằm phát triển các mối liên hệ chặt chẽ giữa người Philippines hải ngoại với trong nước. Trong thập kỷ tiếp theo, người từng có quốc tịch Philippines khi sinh ra thì được cấp quyền nhập cảnh miễn thị thực, quyền mua bán bất động sản và nhiều quyền đầu tư hơn. Năm 2003, Luật Giữ và Phục hồi Quốc tịch được thông qua, cho phép những người đã mất quốc tịch Philippines do nhập tịch nước ngoài được nhập lại quốc tịch và đình chỉ việc tước quốc tịch trong trường hợp nhập tịch nước ngoài.[30]

Thuận lợi hoá thủ tục nhập tịch

sửa

Vào thập niên 1950, Philippines có một số lượng lớn người gốc Hoa. Những người Hoa có khuynh hướng ủng hộ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bắt đầu nộp đơn xin nhập tịch Philippines theo chính sách khuyến khích nhập tịch ở nước sở tại của Cộng hòa Nhân dân, nhưng rốt cuộc nhiều người trong số đó không hoàn thành thủ tục do các điều kiện gây khó khăn và tốn kém. Lúc này, số đông người Hoa không nhập tịch Philippines mang hộ chiếu Trung Hoa Dân quốc theo chính sách của họ rằng người Hoa ở nước ngoài là công dân hợp pháp.[31]

Năm 1975, thủ tục nhập tịch được đơn giản hoá tạm thời, cho phép nhập tịch thông qua thủ tục hành chính thay cho nộp đơn lên tòa án. Thủ tục như vậy là để nhằm mục đích cho người Hoa nhanh chóng nhập tịch để chính quyền Tổng thống Marcos giảm thiểu các vấn đề tiềm ẩn trong tương lai, chuẩn bị cho việc chính thức công nhận chính thể nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[32] Một ủy ban xem xét đơn xin nhập tịch và đề nghị tổng thống cho nhập tịch những người đủ điều kiện. Vợ con của người nhập tịch cũng được nhập tịch Philippines theo thủ tục đơn giản hoá.[33] Đơn xin nhập tịch theo thủ tục đơn giản hoá phải được nộp trước ngày 30 tháng 6 năm 1975. Thời hạn này được gia hạn hai lần, lần đầu đến ngày 30 tháng 9 năm 1975 và lần thứ hai đến ngày 1 tháng 4 năm 1976. Từ ngày 8 tháng 6 năm 2001, người nào sinh ra ở Philippines, từ 18 tuổi trở lên và đã cư trú tại Philippines kể từ khi sinh ra thì có thể được nhập tịch theo thủ tục đơn giản hoá.[34]

Nhập tịch, thôi quốc tịch, tước quốc tịch

sửa

Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Philippines thì có quốc tịch Philippines.[27] Sau phán quyết của Tòa án Tối cao Philippines vào năm 2016, trẻ em bị bỏ rơi được tìm thấy trên lãnh thổ Philippines thì được hiểu là công dân Philippines và có quốc tịch Philippines.[35][36] Người nước ngoài có thể được nhập tịch Philippines nếu đủ 21 tuổi trở lên, đã cư trú tại Philippines từ 10 năm trở lên, sở hữu bất động sản có giá trị ít nhất 5.000 peso Philippines hoặc có công việc ổn định trong một ngành nghề có thu nhập cao, biết tiếng Anh hoặc tiếng Tây Ban Nha và một ngôn ngữ của Philippines và có phẩm chất tốt. Ngoài ra, con chưa thành niên của người nước ngoài phải đi học tại một trường học ở Philippines. Trong trường hợp người có đơn xin nhập tịch làm việc cho Chính phủ Philippines, có những đóng góp đáng kể về kinh tế hoặc khoa học cho nhà nước, kết hôn với công dân Philippines, đã giảng dạy tại một trường học Philippines trong ít nhất hai năm hoặc sinh ra ở Philippines thì điều kiện cư trú được giảm xuống còn năm năm.[10] Đơn xin nhập tịch Philippines phải nộp lên Tòa án sơ thẩm Khu vực tại tỉnh đã lưu trú được ít nhất 12 tháng trừ phi người có giấy khai sinh của Philippines và đủ 18 tuổi trở lên.[34]

Những trường hợp sau đây không được nhập tịch Philippines: chống phá nhà nước, tích cực cổ xúy bạo lực, thực hành đa phu thê, phạm tội suy thoái đạo đức, bị chẩn đoán mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh truyền nhiễm nan y, không hòa nhập vào xã hội Philippines hoặc có quốc tịch nước ngoài của một quốc gia đang có chiến tranh với Philippines hoặc không cho phép công dân Philippines nhập tịch.[37]

Công dân Philippines có thể được thôi quốc tịch Philippines, trừ phi Philippines đang có chiến tranh. Công dân Philippines sẽ bị tước quốc tịch nếu phục vụ trong lực lượng vũ trang của nước ngoài, tuyên thệ trung thành với nước ngoài hoặc đào ngũ trong thời chiến. Những người sinh ra trong nước nhưng đã mất quốc tịch do nhập tịch nước ngoài vào trước năm 2003 có thể trở lại quốc tịch Philippines khi đã tuyên thệ trung thành với chính quyền Philippines. Tuơng tự, phụ nữ Philippines đã mất quốc tịch khi kết hôn với người nước ngoài và những người đã mất quốc tịch do hoàn cảnh chính trị hoặc kinh tế trước ngày 23 tháng 10 năm 1995 cũng có thể trở lại quốc tịch Philippines.[38] Người phụ thuộc là con cái hợp pháp của người có quốc tịch Philippines cũng được xem là công dân Philippines.[39]

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b Hernandez 1988, tr. 230.
  2. ^ Pearson 1969, tr. 165.
  3. ^ Aguilar 2017, tr. 3.
  4. ^ a b Hoàng gia Tây Ban Nha (24 tháng 7 năm 1889). “LIBRO PRIMERO, TÍTULO PRIMERO: DE LOS ESPAÑOLES Y EXTRANJEROS”. Bộ luật Dân sự Tây Ban Nha. tr. 7.
  5. ^ a b c d e Peck 1965, tr. 464–465.
  6. ^ a b Aguilar 2017, tr. 4–5.
  7. ^ McGovney 1934, tr. 593–595.
  8. ^ Peck 1965, tr. 463–464.
  9. ^ Aguilar 2010, tr. 219.
  10. ^ a b Aguilar 2017, tr. 13.
  11. ^ Aguilar 2017, tr. 17.
  12. ^ Aguilar 2017, tr. 4.
  13. ^ Lee 2003, tr. 46.
  14. ^ Burnett 2005, tr. 800–801.
  15. ^ McGovney 1934, tr. 606.
  16. ^ Villazor 2017, tr. 1676.
  17. ^ Villazor 2017, tr. 1715–1716.
  18. ^ Villazor 2017, tr. 1718.
  19. ^ Villazor 2017, tr. 1716.
  20. ^ Aguilar 2017, tr. 6.
  21. ^ Villazor 2017, tr. 1716–1717.
  22. ^ Tòa án Tối cáo Phillippines (30 tháng 10 năm 1912). “Tranquilino Roa vs. Insular Collector of Customs”. G.R. No. L-7011.
  23. ^ Aguilar 2017, tr. 7.
  24. ^ Aguilar 2017, tr. 9.
  25. ^ Peck 1965, tr. 467–468.
  26. ^ Peck 1965, tr. 468–469.
  27. ^ a b Aguilar 2017, tr. 11.
  28. ^ Peck 1965, tr. 471–472.
  29. ^ Aguilar 2017, tr. 11–12.
  30. ^ Primer on Philippine Dual Citizenship Act (Republic Act No. 9225) (PDF) (Bản báo cáo) (ấn bản thứ 2018). Uỷ ban về người Philippines hải ngoại. tr. 1. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2022.
  31. ^ Aguilar 2017, tr. 14–15.
  32. ^ Weightman 1986, tr. 88–89.
  33. ^ Aguilar 2017, tr. 15.
  34. ^ a b Aguilar 2017, tr. 15–16.
  35. ^ Aguilar 2017, tr. 20–21.
  36. ^ Aguilar 2017, tr. 12.
  37. ^ Fernando 1959, tr. 176–177.
  38. ^ Aguilar 2017, tr. 16–19.
  39. ^ Aguilar 2017, tr. 2.

Nguồn

sửa

Tài liệu

sửa