Kon Satoshi

đạo diễn anime và mangaka người Nhật Bản (1963–2010)

Kon Satoshi (Nhật: 今 敏 (Kim Mẫn)? 12 tháng 10 năm 196324 tháng 8 năm 2010[3]) là một đạo diễn phim, họa sĩ diễn hoạt, nhà biên kịch, tác giả manga người Nhật Bản và từng là một thành viên của Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản (JAniCA).[4] Sinh ra ở Kushiro, Hokkaidō, Kon tốt nghiệp khoa đồ họa trường Đại học Nghệ thuật Musashino. Thỉnh thoảng ông đặt nghệ danh là "Wanibuchi Yoshihiro" (鰐淵良宏?), như trong phần giới thiệu sản xuất của anime truyền hình Mōsō Dairinin. Kon Satoshi là em trai nghệ sĩ guitar kiêm nhạc sĩ Kon Tsuyoshi. Các bộ phim hoạt hình ông thực hiện cùng hãng Madhouse như Perfect Blue (1997), Sennen Joyū (2001), Tokyo Godfathers (2003) và Paprika (2006) đều được đánh giá tích cực nhờ phong cách diễn hoạt đan xen mộng tưởng và hiện thực, vốn mới mẻ và khác biệt so với các bộ phim hoạt hình đương thời.

Kon Satoshi
今 敏
Sinh(1963-10-12)12 tháng 10, 1963
Sapporo, Hokkaidō, Nhật Bản
Mất24 tháng 8, 2010(2010-08-24) (46 tuổi)
Tokyo, Nhật Bản[1]
Nguyên nhân mấtUng thư tuyến tụy
Quốc tịch Nhật Bản
Tên khácWanibuchi Yoshihiro
Trường lớpĐại học Nghệ thuật Musashino
Nghề nghiệpHọa sĩ diễn hoạt, đạo diễn phim, nhà biên kịch, Mangaka
Năm hoạt động1984–2010
Phối ngẫuKon Kyoko[2]
Websitekonstone.s-kon.net

Tiểu sử

sửa

Thiếu thời

sửa

Kon Satoshi sinh ngày 12 tháng 10 năm 1963,[5] trải qua một phần tuổi thơ tại thành phố biển Kushiro, tỉnh Hokkaidō. Do cha thay đổi nơi công tác, từ lớp 4 tiểu học đến năm thứ hai sơ trung, Kon đã chuyển đến sống tại Sapporo. Bạn cùng lớp chơi rất thân với Kon lúc bấy giờ là mangaka Takizawa Seihō. Trong những năm theo học trường cấp 3 Hokkaidō Kushiro Koryo, Kon đã khao khát trở thành một họa sĩ diễn hoạt.[6] Các tác phẩm Kon yêu thích là Uchū Senkan Yamato (1974), Alps no Shōjo Heidi (1974), Conan – Cậu bé tương lai (1978), Kidō Senshi Gundam (1979)[7] cũng như Dōmu của Otomo Katsuhiro.[8] Tsutsui Yasutaka cũng là nguồn cảm hứng đối với phong cách nghệ thuật của Kon Satoshi. Kon tốt nghiệp khoa đồ họa trường Đại học Nghệ thuật Musashino vào năm 1982.[6] Trong khoảng thời gian này, Kon đã xem nhiều phim nước ngoài và hào hứng đọc sách của Tsutsui Yasutaka.[8][9]

Khởi nghiệp

sửa

Khi đang học đại học, Kon Satoshi sáng tác manga ngắn đầu tay Toriko (1984) với tư cách một mangaka, và giành vị trí á quân tại giải thưởng Chiba Tetsuya thường niên lần thứ 10, do tạp chí Young Magazine (Kodansha) trao tặng.[6][10][11] Sau đó, ông trở thành phụ tá của tác giả Otomo Katsuhiro.[11][12] Otomo là đạo diễn của phim anime Akira mang tính đột phá; ông đã giúp Kon Satoshi làm quen với ngành công nghiệp anime đang trong giai đoạn phát triển tại Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1987,[6] Kon Satoshi sáng tác manga Kaikisen (1990) và viết kịch bản phim người đóng World Apartment Horror của Otomo.[11] Năm 1991, Kon Satoshi làm họa sĩ diễn hoạt và thiết kế bố cục cho phim anime Roujin Z.[6][11] Kon Satoshi đã giám sát sản xuất Kidō Keisatsu Patlabor: The Movie 2 của Oshii Mamoru song song với nhiều phim anime khác.[6] Ông tiếp tục sáng tác manga Seraphim: 266.613.336 no Tsubasa cùng với Oshii; manga này đăng trên tạp chí Animage vào năm 1994.[13]:17 Năm 1995, Kon Satoshi trở thành nhà biên kịch, thiết kế bố cục và chỉ đạo nghệ thuật của phim ngắn Magnetic Rose, phần đầu tiên trong bộ ba phần phim ngắn Memories của Otomo Katsuhiro.[6][11] Các tác phẩm của Kon Satoshi sau đó được đặc biệt chú ý bởi chúng liên tục lặp lại phong cách diễn hoạt đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực.[14]

Đạo diễn

sửa

Năm 1993, Kon Satoshi viết kịch bản và đồng sản xuất tập thứ năm của loạt OVA JoJo no Kimyō na Bōken.[8] Năm 1997, ông bắt đầu sự nghiệp đạo diễn phim của mình với Perfect Blue (パーフェクトブルー? dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Takeuchi Yoshikazu);[15] truyện phim xoay quanh một ngôi sao nhạc pop. Đó là bộ phim đầu tiên của Kon Satoshi sản xuất bởi Madhouse.[5] Ban đầu Kon không mặn mà với kịch bản phim của tác giả nguyên tác, và đã đề nghị sửa lại.[16][17] Trừ việc giữ lại ba yếu tố chính của tiểu thuyết ("thần tượng", "kinh dị" và "kẻ bám đuôi"), Kon Satoshi được phép thực hiện bất cứ thay đổi nào mà ông muốn.[16] Kịch bản phim được viết bởi Murai Sadayuki,[8] người chuyển tải ý tưởng phối trộn bối cảnh thế giới thực và tưởng tượng.[16]

Sau Perfect Blue, Kon Satoshi cân nhắc đưa tiểu thuyết Paprika (パプリカ?) (1993) của Tsutsui Yasutaka thành bộ phim tiếp theo của ông. Tuy nhiên, kế hoạch đó bị ngừng lại khi nhà phân phối của Perfect Blue là Rex Entertainment phá sản.[18] Ngẫu nhiên thay, tác phẩm tiếp theo của Kon cũng lấy chủ đề kết hợp giữa hiện thực và mộng tưởng.[16] Năm 2002, bộ phim thứ hai của ông, Sennen Joyū (千年女優?), ra rạp. Truyện phim xoay quanh một nữ diễn viên về hưu đã bí ẩn rút lui khỏi công chúng khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp. Với kinh phí ước tính gần bằng Perfect Blue (khoảng 1,2 triệu đô la Mỹ),[9] Sennen Joyū được đánh giá cao hơn và thành công hơn về doanh thu so với bộ phim trước, đồng thời giành được nhiều giải thưởng.[19] Kịch bản tiếp tục do Murai Sadayuki phụ trách,[16] ông vận dụng sự gắn kết liền mạch giữa mộng tưởng và hiện thực để tạo nên "phong cách trompe-l'œil của bộ phim".[20] Sennen Joyū là phim đầu tiên mà Kon Satoshi làm việc cùng với nhà soạn nhạc Hirasawa Susumu, vốn là người mà ông hâm mộ từ lâu.[21]

Năm 2003, tác phẩm thứ ba của Kon Satoshi, Tokyo Godfathers (東京ゴッドファーザーズ?), ra mắt công chúng. Phim tập trung vào ba người vô gia cư ở Tokyo; họ phát hiện ra một đứa trẻ bị bỏ rơi vào đêm Giáng Sinh và cùng nhau tìm lại cha mẹ cho cô bé. Tokyo Godfathers có kinh phí cao hơn hai phim trước của Kon Satoshi (ước tính 2,4 triệu đô la Mỹ)[9], xoay quanh đề tài vô gia cư và sự ruồng bỏ, với một chút hài hước châm biếm.[11][16] Nét đặc trưng của phim nằm ở phong cách nghệ thuật hiện thực và đề tài táo bạo ít thấy ở những anime đương thời. Kịch bản phim được viết bởi Nobumoto Keiko.[22] Năm 2004, Kon Satoshi thực hiện xê-ri anime truyền hình dài 13 tập có nhan đề Mōsō Dairinin (妄想代理人?). Ở tác phẩm này ông đã quay lại chủ đề phối trộn giữa ảo tưởng và hiện thực, và thêm vào một số đề tài mang tính xã hội.[23] Bộ phim được tạo nên từ những ý tưởng thừa chưa được dùng đến cho cốt truyện và chỉnh biên mà Kon Satoshi cảm thấy hài lòng, nhưng không thể đưa vào bất kỳ dự án nào trước đó của ông.[24]

Năm 2006, Paprika cuối cùng cũng được công chiếu sau khi đã lên kế hoạch và hiện thức hoá trong nhiều năm. Truyện phim kể về một dạng liệu pháp tâm lý mới, thông qua phân tích giấc mơ để nghiên cứu tâm lý bệnh nhân. Bộ phim thành công vang dội và giành được nhiều giải thưởng. Kon Satoshi tóm tắt phim như sau: "Kihonteki na story igai wa subete kaeta" (基本的なストーリー以外は全て変えた?),[25] đại ý: "Mọi thứ, trừ cốt truyện nền tảng, đều thay đổi". Tương đồng với nhiều tác phẩm trước của Kon, phim nhấn mạnh tính cộng hưởng giữa mộng tưởng và hiện thực.[9] Sau Paprika, Kon Satoshi hợp tác cùng Oshii Mamoru và Shinkai Makoto để sản xuất một bộ anime truyền hình trên kênh NHK có tựa Ani*Kuri15 (2007); trong đó ông là tác giả của phim ngắn Ohayō (オハヨウ?).[26] Cùng năm, Kon hỗ trợ thành lập và trở thành thành viên của Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản (JAniCA).[4] Tổ chức này hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của các cá nhân làm việc trong ngành công nghiệp anime.[27]

Cuối đời

sửa

Sau Ohayō, Kon Satoshi bắt tay vào thực hiện bộ phim tiếp theo của ông là Yume Miru Kikai (夢みる機械?). Năm 2010, Kon được chẩn đoán mắc ung thư tuyến tụy giai đoạn cuối. Chỉ còn sống được nửa năm, ông dành toàn bộ thời gian bên gia đình. Thời gian ngắn trước khi mất, Kon Satoshi để lại một thông điệp cuối cùng; nó được gia đình đăng lên blog của Kon sau khi ông qua đời.[28] Như Kon giải thích trong thư, ông lựa chọn không công khai bệnh trạng diễn biến ngày một xấu đi của mình; một phần bởi ông không muốn người khác nhìn thấy cơ thể đã bị căn bệnh hủy hoại. Kon Satoshi qua đời ngày 24 tháng 8 năm 2010 ở tuổi 46.[29] Lời cáo phó đã gây nên cú sốc thật sự và ngay lập tức lan rộng, chủ yếu bởi người ta không hề thấy ông có biểu hiện sức khỏe khác thường nào trong các sự kiện công khai gần đây, vì căn bệnh đã chuyển biến quá nhanh chỉ trong vài tháng cuối đời.[30] Sau khi mất, Kon Satoshi được tạp chí Time vinh danh trong danh sách Lời chào tạm biệt trìu mến những Nhân vật của năm 2010.[31] Aronofsky Darren (đạo diễn của Thiên nga đen) đã viết một điếu văn gửi đến Kon, về sau được in trong cuốn Kon Satoshi Anime Zen-Shigoto (今敏アニメ全仕事? tạm dịch: Những tác phẩm hoạt hình của Kon Satoshi), một ấn phẩm tưởng nhớ về sự nghiệp sản xuất anime của Kon.[31][32]

Tính đến năm 2013, di cảo Yume Miru Kikai của Kon Satoshi vẫn chưa thể trọn vẹn đến với công chúng do vấn đề tài chính, và mới chỉ có 600 trong số 1.500 cảnh phim đã được hoạt họa. Tại sự kiện Otakon 2012, nhà sáng lập Madhouse là Maruyama Masao phát biểu: "Thật không may, chúng tôi vẫn chưa đủ tiền. Mục tiêu của cá nhân tôi là hoàn thành nó [bộ phim] trong vòng năm năm sau khi ông ấy qua đời. Tôi vẫn đang cố gắng hết mình hướng về đích đến đó."[33] Tại Otakon lần sau đó vào tháng 7 năm 2015, Madhouse thông báo những di cảo còn lại của Yume Miru Kikai vẫn đang trong quá trình sản xuất, nhưng họ đang tìm kiếm một đạo diễn tương xứng với tài năng và có tầm nhìn tương tự Kon.[34] Tháng 8 năm 2016, Maruyama nay đã trở thành nhà sản xuất của hãng phim MAPPA đề cập về tương lai của Yume Miru Kikai trong một bài phỏng vấn. Ông cho rằng kể cả khi ai đó có thể "bắt chước" Kon Satoshi và đảm nhận đạo diễn cho di cảo này, thì "rõ ràng đó cũng chỉ là sự bắt chước," và bộ phim sẽ trở thành tác phẩm của người đó chứ không phải Kon. Tuy nhiên Maruyama cảm thấy ổn nếu chỉ dùng các ý tưởng ban đầu của Kon và trao cho người có thể biến nó thành phim.[35] Ông cũng bày tỏ ý định làm một bộ phim tài liệu về Kon Satoshi.[35] Khi được hỏi một lần nữa về Yume Miru Kikai vào tháng 1 năm 2017, Maruyama ví nó như thể "một sân khấu với ngôi sao không còn trên sàn diễn nữa," vì vậy vào lúc này "[bộ phim] cứ qua lại trong tâm trí tôi" và "để làm được nó là vô cùng khó khăn."[36]

Chủ đề

sửa

Vào dịp bộ phim Tokyo Godfathers giành giải nhất tại Liên hoan Nghệ thuật truyền thông Nhật Bản vào năm 2003, Kon Satoshi bày tỏ ông muốn "làm phong phú hơn mối quan hệ giữa người quan sát và người bị quan sát".[37] Các tác phẩm của Kon Satoshi đặc trưng với nghệ thuật truyền tải những đề tài hiện thực đầy táo bạo ít thấy ở anime đại chúng: đó là cuộc sống của những người vô gia cư ở Tokyo (Tokyo Godfathers), những biến động của đất nước Nhật Bản trong thế kỷ 20 qua cuộc đời của một ngôi sao điện ảnh ở buổi hoàng hôn sự nghiệp (Sennen Joyū), hay áp lực trong cuộc sống hiện đại đối với người Nhật (Mōsō Dairinin).

Khi được hỏi về sự quan tâm dành cho những nhân vật nữ, Kon cho biết có thể viết về họ dễ dàng bởi vì ông không thể hiểu họ theo cách tương tự ở nam giới, và "có thể đưa những nỗi ám ảnh của tôi vào nhân vật [nữ] và mở rộng được những phương diện mà tôi muốn miêu tả".[38] Liên hệ đến một khung cảnh trong Tokyo Godfathers, nhà phê bình Susan J. Napier lưu ý rằng mặc dù phong cách diễn hoạt là một trong những nét tương đồng rõ rệt ở các tác phẩm của ông, bà thấy khái niệm nhãn quan nam giới là đề tài quan trọng hơn cần phải bàn đến. Napier cho thấy sự tiến triển trong yếu tố thỏa mãn nhãn quan mà Kon Satoshi sử dụng, từ khía cạnh hạn chế và tiêu cực của nó ở Magnetic Rose và Perfect Blue, đến sự thỏa mãn có tính nhân nhượng ở Sennen Joyū, trước khi tiến đến một loại thỏa mãn nhãn quan mới ở Tokyo Godfathers (trong đó lấy sự bất ổn và ảo tưởng làm thú tiêu khiển).[38]

Đạo diễn Dean DeBlois nhận xét: "Kon Satoshi dùng những bức vẽ thủ công để khám phá những kỳ thị xã hội và tâm lý con người, thắp sáng những mặc cảm của chúng ta theo cái cách mà có lẽ sẽ thất bại ở phim người đóng. Hầu hết chúng gai góc, dữ dội và đôi khi, [mang lại] cả ác mộng. Kon Satoshi không né tránh những vấn đề mang tính trưởng thành hoặc nhạy cảm [như ở] phim người thật trong các tác phẩm của mình, và phim của ông ấy sẽ luôn chiếm một vị trí trung tâm đầy mê hoặc giữa 'hoạt hình' và thế giới mà chúng ta biết."[39]

Nguồn cảm hứng

sửa

Những tác phẩm ảnh hưởng nhiều nhất đến Kon Satoshi là của Philip K. Dick và Tsutsui Yasutaka[9][15] Kon đã xem nhiều manga và anime khác nhau đến khi lên cấp 3.[8] Ông đặc biệt yêu thích Uchū Senkan YamatoMirai Shōnen Conan, Ginga Tetsudō 999, Kidō Senshi GundamDōmu.[7][40] Những bộ phim Viễn Tây đã tác động nhiều đến Kon trong sự nghiệp sau này gồm Slaughterhouse-Five (1972) của George Roy Hill, The City of Lost Children (1995) và các tác phẩm của Terry Gilliam (đặc biệt là Time Bandits (1981), Brazil (1985) và The Adventures of Baron Munchausen (1989)).[5][8][15] Ngoài Gilliam, Kon từng hào hứng viết blog về những lần xem phim của Monty Python.[41] Kon cũng bị những tác phẩm của Kurosawa Akira cuốn hút, và đã đề cập đến ông này trong Paprika.[18] Tuy vậy, ông tuyên bố là hầu như không hiểu nhiều về các tác phẩm điện ảnh Nhật Bản nói chung.[20][42]

Di sản

sửa

Kon Satoshi đã có một sự ảnh hưởng đến một số đạo diễn tên tuổi. Nhà làm phim người Mỹ Darren Aronofsky đã thừa nhận điểm tương đồng giữa Perfect Blue với bộ phim Thiên nga đen năm 2010 của ông, nhưng phủ nhận rằng Thiên nga đen được truyền cảm hứng trực tiếp từ Perfect Blue.[43][44] Một số nhà phê bình và học giả đã ghi chú nhiều sự tương đồng nổi bật giữa Paprika với Inception của Christopher Nolan bởi cốt truyện tương đồng, nhân vật tương đồng, các phân cảnh tương đồng; cho rằng Inception bị ảnh hưởng bởi Paprika.[45][46][47][48][49][50]

Danh sách phim

sửa
Năm Tựa đề Đạo diễn Biên kịch Diễn hoạt Ghi chú vai trò
1991 World Apartment Horror   Phim dài. Dựa trên manga cùng tên của Kon Satoshi.[51]
1991 Roujin Z   Phim dài. Hoạt họa hậu cảnh.[13]
1992 Hashire Melos!   Phim dài. Thiết kế bố cục.[51]
1993 Kidō Keisatsu Patlabor: The Movie 2   Phim dài. Thiết kế bố cục.[51]
1994 JoJo no Kimyō na Bōken     OVA. Hoạt họa tập 2. Đạo diễn tập 5.[51]
1995 Memories     Phim hợp tuyển. Biên kịch, thiết kế hậu cảnh, thiết kế bố cục cho Magnetic Rose.[51]
1997 Perfect Blue     Phim dài. Đạo diễn, chuyển thể kịch bản.[13]
1998 Detatoko Princess   OVA.
2001 Sennen Joyū     Phim dài. Đạo diễn, kịch bản nguyên tác, thiết kế nhân vật.[13]
2003 Tokyo Godfathers     Phim dài. Đạo diễn và kịch bản nguyên tác.[13]
2004 Mōsō Dairinin     Phim truyền hình. Đạo diễn, biên kịch và kịch bản phân cảnh cho đoạn mở đầu và các tập phim 1, 9, 13.[13]
2006 Paprika     Phim dài. Đạo diễn và biên kịch.[13]
2008 Ohayō     Phim ngắn. Một tập phim trong loạt phim Ani*Kuri15.[51]
CTB Yume Miru Kikai     Phim dài. Đạo diễn, biên kịch. Dừng sản xuất sau khi Kon Satoshi mất.

Ấn phẩm

sửa

Manga

sửa
Năm Tựa đề Ghi chú
1984 Toriko (?) Manga đầu tay và cũng là một tác phẩm doujinshi. Nó đoạt vị trí á quân trong lễ trao giải thưởng Chiba Tetsuya cho hạng mục "Đặc biệt triển vọng".[13]:14 Bản dịch tiếng Anh in trong tuyển tập Dream Fossil.[52]
1990 Kaikisen (海帰線?) Đăng trong tạp chí Young Magazine của Kodansha.[13]:15 Bản dịch tiếng Anh ấn hành vào năm 2013 bởi Vertical Comics.
1990 Akira Họa sĩ trợ lý, không có tên trong trang giới thiệu tác giả.[13]:15
1991 World Apartment Horror (ワールド・アパートメントホラー?) Chuyển thể từ bộ phim cùng tên do Otomo Katsuhiro đạo diễn và Nobumoto Keiko viết kịch bản. Sau phần nội dung phim, manga tổng hợp ba truyện ngắn hơn do Kon sáng tác: Visitors, WairaJoyful Bell, về sau phát triển thành Tokyo Godfathers.
1994–1995 Seraphim: 266.613.336 no Tsubasa (セラフィム 2億6661万3336の翼?) Manga chưa hoàn thiện với sự cộng tác của Oshii Mamoru, đăng từ số tháng 5 năm 1994 đến số tháng 11 năm 1995 của Animage.[13]:40[53] Tái bản một phần sau khi Kon Satoshi qua đời như một phụ san tưởng niệm của Monthly Comic Ryū vào năm 2010 và được xuất bản dưới dạng tankōbon bởi Tokuma Shoten vào tháng 12 cùng năm. Bản dịch tiếng Anh ấn hành bởi Dark Horse Comics.[54][55][56]
1995–1996 Opus Manga chưa hoàn thiện, đăng hai tháng một lần trên tạp chí Comic Guys của Gakken, từ 1995–1996.[53] Nó được tổng hợp và tái phát hành vào tháng 12 năm 2010.[57] Bản dịch tiếng Anh ấn hành vào năm 2014 bởi Dark Horse Comics.[58]

Thư phẩm khác

sửa
Năm Tựa đề Nhà xuất bản ISBN Ghi chú
2002 Kon's Tone: Sennen Joyū e no Michi (コンズ・トーン: 「千年女優」への道?) Shobunsha Publications 978-4794965462 Tác phẩm dạng tiểu sử ghi lại quá trình Kon Satoshi đến với bộ phim Sennen Joyū.[59] Tái bản vào năm 2013.
2002 Sennen Joyū-Gaho: Sennen Joyū Visual Book (千年女優画報―『千年女優』ビジュアルブック?) Kawade Shobo Shinsha 978-4309905112 Artbook gồm các bài phỏng vấn với diễn viên lồng tiếng và đạo diễn, cùng các bản thiết kế nhân vật hoạt hoạt của Madhouse.[60]
2003 Tokyo Godfathers: Angel Book (東京ゴッドファーザーズ・エンジェルブック?) Takarajimasha 978-4796636803 Artbook gồm các bài phỏng vấn với diễn viên lồng tiếng và đạo diễn, cùng các bản đồ họa nhân vật và hậu cảnh.[61]
2011 Yume no Kaseki: Kon Satoshi Zentanpen (夢の化石 今敏全短篇?) Kōdansha 978-4063760323 Tuyển tập gốm 15 manga ngắn đã phát hành từ năm 1984 đến năm 1989, bao gồm Toriko, WairaJoyful Bell.[62] Bản dịch tiếng Anh với tựa Dream Fossil ấn hành vào năm 2015 bởi Vertical Comics.[63]
2011 Kon Satoshi Anime Zen-Shigoto (今 敏アニメ全仕事?) G.B. 978-4901841948 Sách hồi tưởng gồm các bài phỏng vấn, tài liệu thiết kế nhân vật và nhiều nội dung khác.[64]
2012 Kon's Tone II Bán độc quyền trên cửa hàng trực tuyến Kon's Tone của Kon Satoshi. Tổng hợp các bài tiểu luận và bản phác thảo, bao gồm thông điệp chia tay của Kon.[65][66]
2014 Kon Satoshi Gashū KON'S WORKS 1982-2010 (今 敏 画集 KON'S WORKS 1982-2010?) Kadokawa Shoten 978-4041105719 Artbook bao quát toàn bộ sự nghiệp của Kon Satoshi, bao gồm các bản thiết kế nhân vật của bộ phim di cảo Yume Miru Kikai. Bản in gốc số lượng có hạn phát hành trong sự kiện triển lãm tưởng niệm Kon vào năm 2011. Bản dịch tiếng Anh ấn hành vào năm 2015 bởi Dark Horse Comics.[67]
2015 Kon Satoshi Ekonte-Shū: Perfect Blue (今敏 絵コンテ集 PERFECT BLUE?) Fukkan.com 978-4835451411 Tổng hợp toàn bộ kịch bản phân cảnh của Perfect Blue, khổ nhỏ hơn bản in gốc kèm theo bản giới hạn của đĩa Blu-ray Perfect Blue phát hành năm 2008.[68]

Đọc thêm

sửa
  • Osmond, Andrew (2009). Satoshi Kon: The Illusionist (bằng tiếng Anh). Berkeley, California: Stone Bridge Press. ISBN 1-93333-074-0. Tóm lược dễ hiểuStone Bridge Press.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Scott, A. O. (26 tháng 8 năm 2010). “Satoshi Kon, Anime Filmmaker, Dies at 46” [Kon Satoshi, nhà làm phim anime, qua đời ở tuổi 46]. The New York Times (bằng tiếng Anh). The New York Times Company. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  2. ^ Osmond, Andrew (26 tháng 8 năm 2010). “Satoshi Kon obituary” [Cáo phó Kon Satoshi]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Guardian Media Group. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2015.
  3. ^ 今 敏 永眠のお知らせ [Cáo phó: Kon Satoshi]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2010.
  4. ^ a b “Japan's Animator Labor Group Legally Incorporates” [Nghiệp đoàn hoạt hình Nhật Bản có tư cách pháp nhân] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 6 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009.
  5. ^ a b c マッドハウス・公式プロフィール [Madhouse: hồ sơ chính thức] (bằng tiếng Nhật). Madhouse. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  6. ^ a b c d e f g Kon Satoshi. “PROFILE & WORKS” [Tiểu sử & tác phẩm]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  7. ^ a b Giron, Aimee (7 tháng 12 năm 2005). “HT Talks To... FilmMaker Satoshi Kon”. Sound & Vision (bằng tiếng Anh). Source Interlink Media. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  8. ^ a b c d e f “Interview with Satoshi Kon, Director of Perfect Blue” [Phỏng vấn Kon Satoshi, đạo diễn của Perfect Blue]. Perfect Blue (bằng tiếng Anh). Kichijōji, Tokyo: Manga Entertainment và Rex Entertainment. 4 tháng 9 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  9. ^ a b c d e “Focus on: Interview Satoshi Kon” [Chuyên mục: Phỏng vấn Kon Satoshi]. Catsuka (bằng tiếng Pháp). Biên dịch bởi Emmanuel Pettini. 10 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2016.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  10. ^ ちばてつや賞(ヤング部門) [Danh sách giải thưởng Chiba Tetsuya (phòng biên tập Young)] (bằng tiếng Nhật). Chiba Tetsuya Production. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  11. ^ a b c d e f Sevakis, Justin (21 tháng 8 năm 2008). “Interview: Satoshi Kon” [Phỏng vấn:Kon Satoshi] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  12. ^ Kon Satoshi (tháng 3 năm 1998). フランスから「パーフェクトブルー」に関するインタビュー [Phỏng vấn về "Perfect Blue" tại Pháp]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  13. ^ a b c d e f g h i j k Osmond, Andrew (2009). Satoshi Kon: The Illusionist. Stone Bridge Press. ISBN 978-1933330747.
  14. ^ Otomo Katsuhiro; Kon Satoshi (ngày 24 tháng 10 năm 2003). “none”. Memories (DVD) (bằng tiếng Nhật). Bandai Visual. ASIN B0000C8RA8.
  15. ^ a b c Aguiar, Bill (25 tháng 4 năm 2007). “Interview with Satoshi Kon” [Phỏng vấn Kon Satoshi] (bằng tiếng Anh). Tokyopop. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  16. ^ a b c d e f Mes, Tom (11 tháng 2 năm 2002). “INTERVIEW Satoshi Kon” [Phỏng vấn Kon Satoshi]. Midnight Eye. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  17. ^ Kon Satoshi (tháng 6 năm 2004). Interview 07 2004年6月 アメリカから、監督作品全般に関するインタビュー [Bài phỏng vấn số 7: Phỏng vấn chung về công việc đạo diễn, tháng 6 năm 2014 tại Hoa Kỳ]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  18. ^ a b Gray, Jason (20 tháng 11 năm 2006). “INTERVIEW Satoshi Kon Part2” [Phỏng vấn Kon Satoshi phần 2]. Midnight Eye (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  19. ^ “Grand Prize Millenial Actress” [Giải nhất: Sennen Joyū] (bằng tiếng Anh). Japan Media Arts Plaza, Cục Văn hóa. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2016.
  20. ^ a b “Director Satoshi Kon Interview” [Phỏng vấn đạo diễn Kon Satoshi] (bằng tiếng Anh). DVD Vision Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  21. ^ Kon Satoshi (tháng 6 năm 2007). Interview 23 2007年6月 アメリカから「パプリカ」について [Bài phỏng vấn số 23: Về "Paprika", tháng 6 năm 2007 tại Hoa Kỳ]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  22. ^ 東京ゴッドファーザーズ:スタッフ [Tokyo Godfathers: Nhân viên sản xuất] (bằng tiếng Nhật). Sony Pictures Entertainment Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  23. ^ “Interview with Satoshi Kon” [Phỏng vấn Kon Satoshi]. GameStar (bằng tiếng Anh). IDG Entertainment Media GmbH. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  24. ^ Kon Satoshi. 妄想の産物 妄想の二「総監督の謎」 [Vọng tưởng 2: "Tổng giám đốc thần bí"]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  25. ^ “Satoshi Kon-ITW-Interview” [Phỏng vấn Kon Satoshi]. Première (bằng tiếng Pháp). Lagardère Group. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  26. ^ “NHK Launches Ani-Kuri 15” [NHK phát sóng Ani-Kuri 15] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 2 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  27. ^ JAniCA Q&A(2010/08/09改訂) [JAniCA: Hỏi và đáp (phiên bản 9 tháng 8 năm 2010)] (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Tác giả hoạt hình Nhật Bản. 9 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
  28. ^ Kon Satoshi (25 tháng 8 năm 2010). さようなら [Vĩnh biệt]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  29. ^ Makiko Itoh (26 tháng 8 năm 2010). “Satoshi Kon's last words” [Những lời cuối cùng của Kon Satoshi]. Makiko Itoh: Not a Nameless Cat (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  30. ^ “Perfect Blue/Paprika Director Satoshi Kon Passes Away (Updated)” [Đạo diễn Kon Satoshi của Perfect Blue/Paprika đã qua đời (Cập nhật)] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 25 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  31. ^ a b Corliss, Richard (15 tháng 12 năm 2010). “Person of the Year 2010” [Nhân vật của năm 2010]. Time (bằng tiếng Anh). Time Warner (xuất bản 13 tháng 9 năm 2010). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  32. ^ “Satoshi Kon Book Adds Message by Black Swan's Aronofsky (Updated)” [Cuốn sách về Kon Satoshi kèm theo thông điệp của Aronofsky, tác giả Thiên nga đen (Cập nhật)] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  33. ^ Sevakis, Justin (29 tháng 7 năm 2012). “Otakon 2012: Masao Maruyama/MAPPA Q&A” [Otakon 2012: Maruyama Masao/MAPPA: Hỏi và đáp] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2016.
  34. ^ Green, Scott (27 tháng 7 năm 2015). “Madhouse Founder Comments on Satoshi Kon's "Dreaming Machine" [Nhà sáng lập Madhouse bình luận về "Yume Miru Kikai" của Kon Satoshi] (bằng tiếng Anh). Crunchyroll. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
  35. ^ a b Maruyama Masao (20 tháng 8 năm 2016). アニメ業界ウォッチング第24回:今年75歳、やぶれかぶれのアニメ人生! 丸山正雄インタビュー! [Theo dõi ngành công nghiệp anime, bài thứ 24: Năm nay đã bước sang tuổi 75, cả cuộc đời hoàn toàn dành cho anime! Phỏng vấn Maruyama Masao!]. Akiba Souken (Phỏng vấn) (bằng tiếng Nhật). Phóng viên Hirota Keisuke. tr. tr. 2. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
  36. ^ Maruyama Masao (28 tháng 1 năm 2017). “Interview: Legendary Anime Producer Masao Maruyama” [Phỏng vấn: Huyền thoại sản xuất anime Maruyama Masao] (Phỏng vấn) (bằng tiếng Anh). Phóng viên Andrew Osmond. Anime News Network. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
  37. ^ “Excellence Prize Tokyo Godfathers” [Giải nhất: Tokyo Godfathers]. Japan Media Arts Plaza (bằng tiếng Anh). Nhật Bản: Cục Văn hóa. 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017.
  38. ^ a b Napier, Susan (2006). "Excuse Me,Who Are You?": Performance, the Gaze, and the Female in the Works of Kon Satoshi” ["Xin lỗi, bạn là ai?": Diễn hoạt, thỏa mãn nhãn quan, và nữ giới trong các tác phẩm của Kon Satoshi]. Trong Brown, Steven T. (biên tập). Cinema Anime: Critical Engagements with Japanese Animation [Anime chiếu rạp: Sự ràng buộc chính yếu của nền hoạt hình Nhật Bản] (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 1). Hoa Kỳ: Palgrave Macmillan US (xuất bản tháng 9 năm 2008). tr. 23–42. doi:10.1057/9781403983084_2. ISBN 978-0-230-60621-0. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016 – qua Springer International Publishing AG thuộc Springer Nature. Tóm lược dễ hiểuPalgrave Macmillan.
  39. ^ Solomon, Charles (26 tháng 8 năm 2010). “Satoshi Kon dies at 46; Japanese anime director” [Kon Satoshi qua đời ở tuổi 46; đạo diễn anime Nhật Bản]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). tronc. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2016.
  40. ^ Kon Satoshi (tháng 2 năm 1998). Interview 05 1998年2月 アメリカから「パーフェクトブルー」に関するインタビュー [Bài phỏng vấn số 5: Phỏng vấn về "Perfect Blue", tháng 2 năm 1998 tại Hoa Kỳ]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  41. ^ Kon Satoshi (3 tháng 3 năm 2009). 先月の傾向 [Khuynh hướng tháng trước]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2013.
  42. ^ Kon Satoshi (tháng 12 năm 2002). Interview 03 2002年12月 カナダから、主に「千年女優」に関するインタビュー [Bài phỏng vấn số 3: Chủ yếu về "Sennen Joyū", tháng 12 năm 2002 tại Canada]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  43. ^ Denney, Alex (ngày 27 tháng 8 năm 2015). “The cult Japanese filmmaker that inspired Darren Aronofsky” [Nhà làm phim độc người Nhật đã truyền cảm hứng đến Aronofsky Darren]. Dazed (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2015.
  44. ^ “KON'S TONE » VSダーレン” [KON'S TONE » VS Darren]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2015.
  45. ^ Drazen, Patrick (2014). Anime Explosion!: The What? Why? and Wow! of Japanese Animation, Revised and Updated Edition. Stone Bridge Press. tr. 339. ISBN 9781611725506.
  46. ^ Rizzo-Smith, Julian (ngày 24 tháng 8 năm 2018). “An Ode to Anime Auteur Satoshi Kon” [Một tri ân tới nhà làm phim anime có tầm ảnh hưởng Kon Satoshi]. IGN (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  47. ^ Wardlow, Ciara (ngày 2 tháng 3 năm 2017). “The Synergy of 'Inception' and 'Paprika' [Sự cộng hưởng của Inception và Paprika]. Film School Rejects (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017.
  48. ^ Horner, Joshua (ngày 26 tháng 1 năm 2014). “20 Suspiciously Similar Movie Scenes You Never Noticed” [20 phân ảnh điện ảnh giống nhau đáng ngờ mà bạn chưa bao giờ để ý]. WhatCulture (bằng tiếng Anh). tr. 4. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2018.
  49. ^ Boone, Steven (ngày 16 tháng 7 năm 2010). 'Inception': As eye-catching, and as profound, as an Usher concert” [Inception: Bắt mắt và sâu sắc như một buổi hóa nhạc Usher]. Politico (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2019.
  50. ^ Emerson, Jim (ngày 17 tháng 7 năm 2010). “Inception: Has Christopher Nolan forgotten how to dream?” [Inception: Có phải Christopher Nolan đã quên cách mơ?]. RogerEbert.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2019.
  51. ^ a b c d e f “A Tribute to Satoshi Kon” [Tôn kính Kon Satoshi]. Catsuka (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  52. ^ “Satoshi Kon's Short Manga Stories to be Published (Updated)” [Manga ngắn của Kon Satoshi sắp được xuất bản (Cập nhật)] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2013.
  53. ^ a b Kon Satoshi. “UNRELEASED COMIC” [Truyện tranh chưa phát hành]. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2014.
  54. ^ 月刊COMICリュウ 12月号 [Số tháng 12 của Monthly Comic Ryū] (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2014.
  55. ^ “Satoshi Kon's Seraphim, Opus Manga Reprinted” [Manga Seraphim, Opus của Kon Satoshi được in lại] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 8 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2014.
  56. ^ Oshii Mamoru; Kon Satoshi (4 tháng 12 năm 2014). セラフィム 2億6661万3336の翼 [Seraphim: 266.613.336 no Tsubasa] (bằng tiếng Nhật). Tokyo: Tokuma Shoten. tr. 6, 231. ISBN 978-4-19-950220-0. Bản gốc|url lưu trữ= cần |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  57. ^ 【コミック】OPUS(オーパス) (上) [[Truyện tranh] Opus (quyển thượng)] (bằng tiếng Nhật). Animate. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  58. ^ “Satoshi Kon's OPUS TPB” [Sách bìa mềm Opus của Kon Satoshi] (bằng tiếng Anh). Dark Horse Comics. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2014.
  59. ^ GJ Corban (24 tháng 8 năm 2015). “In remembrance of Satoshi Kon” [Tưởng nhớ Kon Satoshi]. Monkeys Fighting Robots (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2016.
  60. ^ 千年女優画報―『千年女優』ビジュアルブック [Sennen Joyū-Gaho: Sennen Joyū Visual Book] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784309905112. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016. Tóm lược dễ hiểuHalcyon Realms (29 tháng 5 năm 2009).
  61. ^ 東京ゴッドファーザーズ・エンジェルブック [Tokyo Godfathers: Angel Book] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784796636803. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016. Tóm lược dễ hiểuHalcyon Realms (8 tháng 7 năm 2009).
  62. ^ 夢の化石 今敏全短篇 (KCデラックス ヤングマガジン) [Yume no Kaseki: Kon Satoshi Zentanpen (KC Deluxe Young Magazine)] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784063760323. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  63. ^ “Dream Fossil: The Complete Stories of Satoshi Kon” (bằng tiếng Nhật). Amazon.com. EAN 9781941220245. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  64. ^ 今 敏アニメ全仕事 [Kon Satoshi Anime Zen-Shigoto] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784901841948. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016. Tóm lược dễ hiểuHalcyon Realms (9 tháng 1 năm 2012).
  65. ^ KON'S TONE II. KON'STONE (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
  66. ^ HazuStark (17 tháng 8 năm 2012). 'Kon's Tone II', segundo volumen de materiales de Satoshi Kon” [‘Kon’s Tone II’, quyển tài liệu thứ hai bởi Kon Satoshi] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Crunchyroll. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
  67. ^ 今 敏 画集 KON'S WORKS 1982-2010 (イラスト・画集) [Kon Satoshi Gashū KON'S WORKS 1982-2010 (Illustration / Gashū)] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784041105719. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016. Tóm lược dễ hiểuHalcyon Realms (7 tháng 1 năm 2014).
  68. ^ 今敏 絵コンテ集 PERFECT BLUE [Kon Satoshi Ekonte-Shū: Perfect Blue] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. JAN 9784835451411. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016. Tóm lược dễ hiểuHalcyon Realms (1 tháng 4 năm 2015).

Liên kết ngoài

sửa