I-16 là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã phóng tàu ngầm bỏ túi tham gia Tấn công Trân Châu Cảng và trong cuộc tấn công tàu bè Đồng Minh tại Diego-Suarez, Madagascar, tham gia tuần tra càn quét tàu bè trong Ấn Độ Dương cũng như tham gia các Chiến dịch Guadalcanal, New GuineaBougainville trước khi bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS England đánh chìm tại khu vực Bougainville vào ngày 19 tháng 5, 1944.

Tàu ngầm I-16 vào năm 1940
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 44
Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Xưởng tàu Kobe
Số hiệu xưởng đóng tàu 44
Đặt lườn 15 tháng 9, 1937
Đổi tên I-16, 1 tháng 6, 1938
Hạ thủy 8 tháng 7, 1938
Nhập biên chế 30 tháng 3, 1940
Số phận Bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS England đánh chìm tại Bougainville, 19 tháng 5, 1944
Xóa đăng bạ 10 tháng 10, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm Type C1
Trọng tải choán nước
  • 2.554 tấn Anh (2.595 t) (nổi) [1]
  • 3.561 tấn Anh (3.618 t) (lặn) [1]
Chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in) chung[1]
Sườn ngang 9,1 m (29 ft 10 in)[1]
Mớn nước 5,3 m (17 ft 5 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)[1]
Số tàu con và máy bay mang được 1 × tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki)
Thủy thủ đoàn tối đa 101[1]
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước 2.595 tấn (2.554 tấn Anh) khi nổi và 3.618 tấn (3.561 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in), mạn tàu rộng 9,1 m (29 ft 10 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft).[3]

Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW). Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type C là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in), cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[5]

Chế tạo

sửa

Được đặt hàng trong Chương trình Maru 3 năm 1937, I-16 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 44 tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi tại Kobe vào ngày 15 tháng 9, 1937.[6][7] Nó được đổi tên thành I-16 vào ngày 1 tháng 6, 1938[6][7] trước khi được hạ thủy vào ngày 8 tháng 7, 1938[6][7] rồi được kéo đến Xưởng vũ khí Hải quân Kure tại Kure, Hiroshima để hoàn thiện.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 30 tháng 3, 1940,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Kobayashi Hitoshi.[7]

Lịch sử hoạt động

sửa

1940 - 1941

sửa

Sau khi nhập biên chế, I-16 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka.[6][7] Vào mùa Thu năm 1941, nó cùng các tàu ngầm chị em I-18, I-20, I-22I-24 được cải biến thành tàu ngầm mẹ để mang tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[7][8]

Trung tá Hải quân Yamada Kaoru tiếp nhận quyền chỉ huy I-16 từ ngày 31 tháng 7, 1941,[6][7] rồi đến ngày 15 tháng 11, 1941, I-16 được điều sang Đội tàu ngầm 1 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7] Tại Căn cứ Hải quân Kure vào ngày 17 tháng 11, I-16 được phân về Đơn vị Tấn công Đặc biệt dưới quyền Tư lệnh Đội tàu ngầm 3, Đại tá Hải quân Sasaki Hankyu, vốn bao gồm các tàu ngầm chị em I-18, I-20, I-22I-24, do I-22 đảm trách vai trò soái hạm. Các hạm trưởng được thông báo chi tiết về Chiến dịch Z và vai trò của tàu ngầm mẹ mang tàu ngầm bỏ túi trong kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng sắp diễn ra.[7]

Vào ngày 18 tháng 11, năm chiếc tàu ngầm di chuyển từ Kure đến Khu vực Thực hành Hải quân Kamegakubi, nơi mỗi chiếc nhận lên tàu một tàu ngầm bỏ túi Type A.[7] Đến 02 giờ 15 phút ngày 19 tháng 11, họ khởi hành từ Kamegakubi để hướng sang khu vực quần đảo Hawaii,[7] theo một lộ trình trực tiếp ngang qua phía Nam đảo san hô Midway.[7] Lúc đang trên đường đi, vào ngày 2 tháng 12, họ nhận được thông điệp từ Hạm đội Liên hợp: "Leo núi Niitaka 1208" (tiếng Nhật: Niitakayama nobore 1208), là mật lệnh cho biết chiến sự với Khối Đồng Minh sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 (theo giờ Nhật Bản, tức ngày 7 tháng 12 tại Hawaii bên kia đường đổi ngày).[7]

Trận Trân Châu Cảng

sửa

Lúc 00 giờ 42 phút ngày 7 tháng 12, 1941, I-16 trở thành chiếc đầu tiên trong số năm tàu ngầm tung ra chiếc tàu ngầm bỏ túi của nó, Số 16, ở vị trí 7 nmi (13 km) về phía Tây Nam lối ra vào Trân Châu Cảng.[7] Nó cùng bốn tàu ngầm "mẹ" khác sau đó đi đến khu vực thu hồi các tàu ngầm bỏ túi dự định về phía Tây Lanai, nơi họ trải qua đêm 7-8 tháng 12.[9] Lúc 22 giờ 41 phút ngày 7 tháng 12, I-16 nhận được bức điện từ Số 16 mô tả cuộc không kích là thành công, rồi đến 00 giờ 51 phút ngày 8 tháng 12, là một bức điện khác báo cáo "Không thể di chuyển."[7] Sau đó nó mất liên lạc hoàn toàn với Số 16. Đến sáng sớm ngày 9 tháng 12, I-18, I-20I-24 được lệnh rời khu vực thu hồi,[9] nhưng I-16I-22 tiếp tục ở lại cho đến ngày 11 tháng 12.[8] Tuy nhiên hông có chiếc nào trong số năm tàu ngầm bỏ túi quay trở lại.[7]

I-16 rời vùng biển Hawaii vào ngày 12 tháng 12 để hướng đến Kwajalein, đến nơi vào ngày 20 tháng 12.[7] Chiếc tàu ngầm được lệnh quay trở về Nhật Bản để thử nghiệm một kiểu ống dẫn, cho phép thủy thủ đoàn tàu ngầm bỏ túi có thể đi sang tàu của mình trong khi tàu ngầm mẹ tiếp tục lặn dưới nược.[7] Nó rời Kwajalein vào ngày 25 tháng 12 và về đến Yokosuka vào ngày 3 tháng 1, 1942, rồi sau đó tiếp tục di chuyển đến Kure để tiến hành thử nghiệm.[7]

Từ ngày 9 tháng 1, 1942, Đội tàu ngầm 1 được phối thuộc trực tiếp dưới quyền Đệ Lục hạm đội.[6] Trong khi I-16 ở lại vùng biển nhà, Hải quân Đức Quốc Xã chính thức yêu cầu Hải quân Nhật Bản tấn công tàu bè Đồng Minh tại Ấn Độ Dương,[10] nên vào ngày 8 tháng 4, Hải quân Nhật Bản quyết định phái Đội tàu ngầm 1 đến hoạt động ngoài khơi bờ biển Đông Phi, nên rút đơn vị này từ Kwajalein để quay trở về Nhật Bản.[10][11] Đến ngày 16 tháng 4, I-16 được điều sang Đơn vị "A" mới được thành lập trong biên chế Hải đội Tàu ngầm 8, bao gồm I-10, I-18, I-20, I-30, các tàu ngầm bỏ túi cùng các tàu tuần dương phụ trợ Aikoku MaruHōkoku Maru, vốn sẽ hoạt động như những tàu tiếp liệu cho tàu ngầm.[7] Đơn vị "A" lên đường lúc 11 giờ 00 ngày hôm đó để hướng sang Penang, Malaya thuộc Anh đã bị Nhật chiếm đóng. [7]

Đơn vị "A" chỉ vừa mới khởi hành được hai ngày khi xảy ra vụ Không kích Doolittle vào ngày 18 tháng 4, khi 16 máy bay ném bom B-25 Mitchell của Không lực Lục quân quân Hoa Kỳ xuất phát từ tàu sân bay USS Hornet (CV-8) đã ném bom xuống các mục tiêu trên đảo Honshū.[7] Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội ra lệnh cho Đơn vị "A" lập tức chuyển hướng sang phía Đông Bắc, đi đến phía Bắc quần đảo Bonin để đánh chặn lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ vốn đã tung ra cuộc không kích. Đơn vị đã không tìm thấy đôi phương, nên tiếp tục hành trình sau đó.[7]

I-30 cùng Aikoku Maru ghé lại cảng Penang từ ngày 20 đến ngày 22 tháng 4, trước khi tiến vào Ấn Độ Dương và hoạt động trinh sát tiền trạm tại khu vực dự định hoạt động của Đơn vị "A".[12] Phần còn lại của Đơn vị "A" đi đến Penang vào ngày 27 tháng 4, nơi họ gặp gỡ tàu chở thủy phi cơ Nisshin,vốn được cải biến để vận chuyển tàu ngầm bỏ túi Type A.[7] I-16, I-18I-20 mỗi chiếc nhận một tàu ngầm bỏ túi tại Penang.[7]

Tuần tra tại Ấn Độ Dương

sửa

Bị mất

sửa

Năm ngày sau khi I-16 bắt đầu chuyến đi tiếp liệu đến Buin, một máy bay tuần tra Hoa Kỳphát hiện chiếc tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước ở vị trí 140 nmi (260 km) về phía Đông Bắc mũi Alexander thuộc đảo Choiseul vào ngày 19 tháng 5, nên đã thông báo tọa độ cho các tàu hộ tống khu trục.[7] England, GeorgeRaby bắt đầu càn quét khu vực bằng sonar, và England dò được tín hiệu mục tiêu lúc 13 giờ 35 phút.[7] Nó tấn công I-16 lúc 13 giờ 41 bằng loạt súng cối chống ngầm Hedgehog đầu tiên trong số năm loạt,[7] và sau loạt cuối cùng họ nghe thấy một tiếng nổ lớn ở độ sâu khoảng hơn 500 ft (150 m), làm nâng phần đuôi của England lên 6 in (15 cm).[7] Những mảnh vỡ bắt đầu trồi lên mặt nước 20 phút sau đó, bao gồm một thùng cao su chứa gạo bên trong.[7] Gần một giờ sau đó, một vệt dầu loang nhỏ xuất hiện, và cho đến ngày 20 tháng 5, vệt dầu lan rộng đến 6 nmi × 3 nmi (11,1 km × 5,6 km), đánh dấu I-16 đã bị đánh chìm tại tọa độ 05°10′N 158°10′Đ / 5,167°N 158,167°Đ / -5.167; 158.167.[7]

I-16 là chiếc đầu tiên trong số sáu tàu ngầm Nhật Bản bị tàu hộ tống khu trục England đánh chìm chỉ trong vòng 13 ngày trong tháng 5, 1944.[13] Các nạn nhân tiếp theo của nó bao gồm Ro-106 vào ngày 22 tháng 5,[13][14] Ro-104 vào ngày 23 tháng 5,[13][15] Ro-116 vào ngày 24 tháng 5,[13][16] Ro-108 vào ngày 26 tháng 5,[13][17]Ro-105 vào ngày 31 tháng 5.[13][18]

Đến ngày 25 tháng 6, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-16 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Solomon với tổn thất toàn bộ 107 thành viên thủy thủ đoàn.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 10, 1944.[6][7]

Tóm tắt chiến công

sửa

I-16 đã đánh chìm được bốn tàu chiến với tổng tải trọng 17.727 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[7]
6 tháng 6, 1942 Susak   Nam Tư 3.889 Bị đánh chìm
8 tháng 6, 1942 Agios Georgios IV   Greece 4.847 Bị đánh chìm
12 tháng 6, 1942 Supetar   Nam Tư 3.748 Bị đánh chìm
1 tháng 7, 1942 Eknaren   Sweden 5.243 Bị đánh chìm

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n “Type C1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ Bagnasco (1977), tr. 192.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 201.
  5. ^ a b Carpenter & Polmar (1986), tr. 104.
  6. ^ a b c d e f g h i j “I-16 ex No-44”. ijnsubsite.info. 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-16: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  8. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2015). “IJN Submarine I-22: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-24: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  10. ^ a b Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-20: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  11. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-18: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  12. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-30: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  13. ^ a b c d e f Naval Historical Center. England I (DE-635). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  14. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2007). “IJN Submarine RO-106: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  15. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-104: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  16. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-116: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  17. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-108: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  18. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine RO-105: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa