HMS Venus (R50)
HMS Venus (R50/F50) là một tàu khu trục lớp V được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Venus sống sót qua cuộc chiến tranh, được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15 vào năm 1953, và tiếp tục phục vụ cho đến khi ngừng hoạt động năm 1977 và bị tháo dỡ năm 1980. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoàng gia được đặt cái tên này.
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Venus (R50) |
Đặt hàng | 1 tháng 9 năm 1941 |
Xưởng đóng tàu | Fairfield Shipbuilding and Engineering Company, Govan, Scotland |
Đặt lườn | 12 tháng 1 năm 1942 |
Hạ thủy | 23 tháng 2 năm 1943 |
Nhập biên chế | 28 tháng 8 năm 1943 |
Xuất biên chế | 1966 |
Xếp lớp lại | tàu frigate Kiểu 15, 1953 |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 1972 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp tàu khu trục V |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 363 ft (111 m) |
Sườn ngang | 35 ft 8 in (10,87 m) |
Mớn nước | 10 ft (3,0 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 37 hải lý trên giờ (42,6 mph; 68,5 km/h) |
Tầm xa | 4.860 nmi (9.000 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 180 |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu frigate Kiểu 15 |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 358 ft (109 m) (chung) |
Sườn ngang | 37 ft 9 in (11,51 m) |
Mớn nước | 14 ft 6 in (4,42 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 31 hải lý trên giờ (57 km/h; 36 mph) (đầy tải) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 174 |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
list error: mixed text and list (help)
|
Vũ khí |
|
Hệ thống phóng máy bay | Sàn đáp trực thăng trên Grenville và Undaunted |
Thiết kế và chế tạo
sửaVenus được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering Company ở Govan, Scotland và được đặt lườn vào ngày 12 tháng 1 năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 2 năm 1943 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 28 tháng 8 năm 1943.
Lịch sử hoạt động
sửaVenus đã tham gia Trận chiến eo biển Malacca cùng các tàu khu trục HMS Saumarez, HMS Verulam, HMS Vigilant và HMS Virago vốn đã đưa đến việc đánh chìm chiếc tàu tuần dương Nhật Bản Haguro vào ngày 16 tháng 5 năm 1945.
Sau chiến tranh, vào năm 1946, Venus và Virago đã tham gia cứu vớt thủy thủ đoàn của chiếc tàu chở dầu Anh Empire Cross, vốn bị hỏa hoạn, nổ tung và đắm tại Haifa, Palestine[1] với tổn thất nhân mạng đến 25 người.[2] Nó sau đó được chọn để cải biến toàn diện thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15, mang ký hiệu lườn mới F50, và trở thành soái hạm của Hải đội Frigate 6. Vào năm 1953, nó tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội nhân lễ Đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth II.[3]
Venus được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1966 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1972.
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Mitchell, W.H.; Sawyer, L.A. (1995). The Empire Ships. London, New York, Hamburg, Hong Kong: Lloyd's of London Press Ltd. ISBN 1-85044-275-4.
- ^ “Haifa Tanker Explosion”. The Times (50521). ngày 5 tháng 8 năm 1946. tr. 3.
- ^ Souvenir Programme, Coronation Review of the Fleet, Spithead, 15th June 1953, HMSO, Gale and Polden
Thư mục
sửa- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- Raven, Alan; Roberts, John (1976). Ensign 6 War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 0-85680-010-4.
- Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.