HMS Rocket (H92)
HMS Rocket (H92/F191) là một tàu khu trục lớp R của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15 vào năm 1952, cho vai trò chống tàu ngầm với ký hiệu lườn mới F191, và phục vụ cho đến năm 1967 khi bị bán để tháo dỡ.
Tàu khu trục HMS Rocket (H92) khoảng năm 1945
| |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Rocket (H92) |
Đặt hàng | tháng 5 năm 1940 |
Xưởng đóng tàu | Scotts Shipbuilding and Engineering Company, Greenock |
Đặt lườn | 14 tháng 3 năm 1941 |
Hạ thủy | 28 tháng 10 năm 1942 |
Nhập biên chế | 4 tháng 8 năm 1943 |
Xếp lớp lại | Tàu frigate chống tàu ngầm, 1951 |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 1967 |
Đặc điểm khái quát(khi hạ thủy)[1] | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục R |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 358 ft 3 in (109,19 m) (chung) |
Sườn ngang | 35 ft 9 in (10,90 m) |
Mớn nước | 9 ft 6 in (2,90 m) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph) |
Tầm xa | 4.675 nmi (8.660 km; 5.380 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 176 |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát(sau cải biến) | |
Kiểu tàu | Tàu frigate Kiểu 15 cải biến |
Trọng tải choán nước |
|
Tốc độ | 31 hải lý trên giờ (57 km/h; 36 mph) |
Tầm xa | 4.675 nmi (8.660 km; 5.380 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 174 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
Ghi chú | các đặc tính khác tương tự như trên |
Thiết kế và chế tạo
sửaĐược đặt hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1940 như một phần của Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thuộc Chi hạm đội Khẩn cấp 4, Rocket được đặt lườn bởi xưởng tàu của hãng Scotts Shipbuilding and Engineering Company ở Greenock, Scotland vào ngày 14 tháng 3 năm 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 10 năm 1942 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 4 tháng 8 năm 1943.
Lịch sử hoạt động
sửaRocket đã đối đầu với các tàu phóng lôi Đức trong eo biển Manche vào tháng 10 năm 1943, trong một trận chiến mà các chiếc HMS Charybdis và HMS Limbourne bị mất. Limbourne đã bị Rocket đắnh đắm sau khi nó chết đứng giữa biển, nhằm tránh cho nó không bị lọt vào tay đối phương.
Đi đến Ấn Độ Dương vào tháng 1 năm 1944, Rocket tham gia vào cuộc bắn phá Sabang vào ngày 25 tháng 7 năm 1944 và xuống quần đảo Andaman trong tháng 2 và tháng 3 năm 1945.
Sau chiến tranh, Rocket được cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15 vào năm 1952, cho vai trò chống tàu ngầm với ký hiệu lườn mới F191. Vào năm 1953, nó đã tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội tại Spithead nhân dịp lễ Đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth II.[3] Sau cùng, Rocket bị tháo dỡ tại Dalmuir vào tháng 3 năm 1967.
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Lenton, H. T. (1998). British and Empire Warships of the Second World War. Greenhill Book. ISBN 9781557500489.
- ^ Raven, Alan (1978). War Built Destroyers O to Z Classes. Roberts, John. London: Bivouac Books. tr. 47. Chú thích có tham số trống không rõ:
|1=
(trợ giúp) - ^ Souvenir Programme, Coronation Review of the Fleet, Spithead, 15th June 1953, HMSO, Gale and Polden
Thư mục
sửa- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- Raven, Alan; Roberts, John (1978). War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 0-85680-010-4.
- Whitley, M. J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.