HMS Oribi (G66)
HMS Oribi (G66) là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc chiến tranh, nó được Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ mua lại năm 1946 như là chiếc Gayret và phục vụ cho đến năm 1965.
Tàu khu trục HMS Oribi (G66)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Oribi (G66) |
Đặt hàng | 3 tháng 9 năm 1939 |
Xưởng đóng tàu | Fairfield Shipbuilding and Engineering Company, Govan, Scotland |
Đặt lườn | 15 tháng 1 năm 1940 |
Hạ thủy | 14 tháng 1 năm 1941 |
Nhập biên chế | 5 tháng 7 năm 1941 |
Xuất biên chế | 1 tháng 1 năm 1946 |
Tình trạng | Bán cho Thổ Nhĩ Kỳ[1] |
Lịch sử | |
Thổ Nhĩ Kỳ | |
Tên gọi | Gayret |
Trưng dụng | 1946 |
Số phận | Tháo dỡ 1965 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục O |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 345 ft (105 m) |
Sườn ngang | 35 ft (11 m) |
Mớn nước | 9 ft (2,7 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 36,75 hải lý trên giờ (68,06 km/h; 42,29 mph) |
Tầm xa | 3.850 nmi (7.130 km; 4.430 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Thiết kế và chế tạo
sửaOribi được đặt hàng trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh cho hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering Company, tại Govan, Scotland vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Nguyên được dự định mang tên HMS Observer, nó được đổi tên thành HMS Oribi do một nguyên nhân không rõ. Con tàu được đặt lườn vào ngày 15 tháng 1 năm 1940 và hạ thủy vào ngày 14 tháng 1 năm 1941. Nó được nhập biên chế cùng Hải quân Anh vào ngày 5 tháng 7 năm 1941.
Lịch sử hoạt động
sửaOribi là một trong số các tàu khu trục đã hỗ trợ cho Chiến dịch Claymore, cuộc đột kích của lực lượng Commando lên đảo Lofoten vào tháng 3 năm 1941 khi đã bắn phá hòn đảo và tấn công tàu bè Đức trong nơi neo đậu ẩn nấp. Nó cũng giúp di tản công dân Na Uy sau cuộc đột kích để tránh sự chiếm đóng của Đức Quốc xã.
Oribi đã hoạt động rộng rãi trong việc hộ tống bảo vệ các Đoàn tàu vận tải Bắc Cực và Bắc Đại Tây Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng bao gồm Đoàn tàu ONS 5 vào tháng 5 năm 1943, vốn được xem là một bước ngoặt quyết định suốt trong Trận Đại Tây Dương.
Sau chiến tranh, nó được Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ mua lại năm 1946, đổi tên thành Gayret và phục vụ cho đến năm 1965.
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Ex-British O class destroyers at battleships-cruisers.co.uk
Thư mục
sửa- Raven, Alan; John, Roberts (1978). War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 9780856800108.
- Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.