HMS Grindall (K477) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Sanders (DE-273), một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt tên theo Phó đô đốc Richard Grindall (1750-1820), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, Chiến tranh Cách mạng PhápChiến tranh Napoleon.[5] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945 nhưng rút biên chế và xóa đăng bạ ngay sau đó, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Tàu frigate HMS Grindall (K477), ngày 12 tháng 4, 1944.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sanders (DE-273)
Đặt tên theo Eugene Thomas Sanders [1][2]
Đặt hàng 25 tháng 1, 1942 [3]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 23 tháng 4, 1943
Hạ thủy 4 tháng 6, 1943
Người đỡ đầu bà Eugene Thomas Sanders[4]
Hoàn thành 23 tháng 9, 1943
Số phận Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh, 23 tháng 9, 1943[4]
Anh Quốc
Tên gọi HMS Grindall (K477)
Đặt tên theo Richard Grindall[5]
Trưng dụng 23 tháng 9, 1943 [4]
Nhập biên chế 23 tháng 9, 1943 [3]
Xuất biên chế 1945
Tình trạng Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 20 tháng 8, 1945
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Grindall (DE-273)
Trưng dụng 20 tháng 8, 1945
Nhập biên chế 20 tháng 8, 1945 [4]
Xuất biên chế 19 tháng 10, 1945 [4]
Xóa đăng bạ 1 tháng 11, 1945 [4]
Tình trạng Bán để tháo dỡ, 28 tháng 5, 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Kiểu tàu Tàu frigate
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 19 kn (22 mph; 35 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được
  • xuồng săn cá voi 27 foot (8,2 m) kiểu Hải quân Anh
  • xuồng tiêu chuẩn kiểu Hải quân Mỹ
Thủy thủ đoàn tối đa 175
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo

sửa

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[4]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4]

DE-273 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 1, 1942, và được tên USS Sanders vào ngày 23 tháng 2, 1943 trước khi được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 23 tháng 4, 1943. Con tàu được đặt theo tên Thiếu úy Hải quân[2] Eugene Thomas Sanders (1899-1941), người phục vụ trên thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39) và đã tử trận trong vụ Tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 6, 1943, được đỡ đầu bởi bà Eugene Thomas (Sarah) Sanders, vợ góa Thiếu úy Sanders.[4] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 23 tháng 9, 1943,[3][4] đồng thời nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Grindall (K477) dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân William Cole.[3][5]

Lịch sử hoạt động

sửa

Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Grindall hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương từ năm 1943 đến năm 1945.[1] Vào ngày 15 tháng 4, 1945, nó phối hợp hoạt động cùng với tàu frigate Keats (K482) tấn công bằng mìn sâu, và đã đánh chìm chiếc tàu ngầm U-boat Đức U-285 tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Nam Ireland, tại tọa độ 50°13′B 012°48′T / 50,217°B 12,8°T / 50.217; -12.800 (U-258 sunk).[3]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại Châu Âu, Grindall được hoàn trả cho Hoa Kỳ tại Chatham, Anh vào ngày 20 tháng 8, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease).[4] Con tàu nhập biên chế trở lại cùng Hải quân Hoa Kỳ cùng ngày hôm đó như là chiếc USS Grindall (DE-273), dưới quyền chỉ huy của Đại úy Hải quân Hoa Kỳ Burrill D. Barker, Jr., rồi khởi hành từ Chatham để quay trở về Xưởng hải quân Philadelphia tại Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ.[1][4]

USS Grindall ở lại Philadelphia cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 19 tháng 10, 1945. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 11, 1945; và con tàu bị tháo dỡ tại Xưởng hải quân Philadelphia; công việc kết thúc vào ngày 28 tháng 5, 1946.[1][3][4]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e Sanders III (DE-273). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  2. ^ a b Nease, Nancy A. (ngày 3 tháng 9 năm 1999). “SANDERS, Eugene Thomas - ENS USN - New York”. ussarizona.org. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “HMS Grindall (K 477)”. uboat.net. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m “Sanders (DE-273)/HMS Grindall (K-477)”. NavSource.org. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ a b c “HMS Grindall K477 (DE 273)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.

Thư mục

sửa

Liên kết ngoài

sửa