HMS Berkeley (L17)
HMS Berkeley (L17) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị trúng bom trong trận Tấn công Dieppe vào ngày 19 tháng 8 năm 1942, và bị chiếc Albrighton (L12) đánh đắm.[2]
Tàu khu trục HMS Berkeley (L17)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Berkeley (L17) |
Đặt tên theo | rừng săn cáo tại Hertfordshire, Anh |
Xưởng đóng tàu | Cammell Laird, Birkenhead |
Đặt lườn | 8 tháng 6 năm 1939 |
Hạ thủy | 29 tháng 1 năm 1940 |
Nhập biên chế | 6 tháng 6 năm 1940 |
Số phận | Bị đánh chìm, 19 tháng 8 năm 1942 |
Đặc điểm khái quát[1] | |
Lớp tàu | Lớp Hunt Kiểu I |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 85 m (278 ft 10 in) (chung) |
Sườn ngang | 8,8 m (28 ft 10 in) |
Mớn nước | 3,27 m (10 ft 9 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 27,5 hải lý trên giờ (50,9 km/h) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 146 |
Vũ khí |
|
Thiết kế và chế tạo
sửaBerkeley được đặt hàng cho hãng Cammell Laird tại Birkenhead trong Chương trình Chế tạo 1939 và được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 1 năm 1940 và nhập biên chế vào ngày 6 tháng 6 năm 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Hugh Walters. Tên nó được đặt theo một rừng săn cáo tại Hertfordshire, Anh, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Anh mang cái tên này.[3]
Lịch sử hoạt động
sửaBerkeley tham gia Chiến dịch Ariel nhằm triệt thoái phần còn lại của Lực lượng viễn chinh Anh khỏi các cảng ở miền Tây nước Pháp; và đã sẵn sàng cho cuộc thương lượng giữa Paul Reynaud và chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp với Thủ tướng Anh Winston Churchill. Sau khi Pháp thua trận, nó đã giúp triệt thoái nhân sự Tòa Đại sứ Anh, Tổng thống lưu vong Ba Lan Władysław Raczkiewicz cùng các binh sĩ Ba Lan và Tiệp Khắc.
Vào tháng 8 năm 1940, đã hộ tống cho các tàu rải mìn trong Chiến dịch rải mìn SN32, rồi trải qua tháng 9 tham gia hoạt động tuần tra chống xâm nhập trong khuôn khổ Chiến dịch Sea Lion tại eo biển Manche. Nó hộ tống các đoàn tàu vận tải trong tháng 10 và tháng 11, và đến ngày 20 tháng 12 đã bị hư hại do trúng một quả thủy lôi tại Medway, và được sửa chữa tại Xưởng tàu Chatham.
Sau khi hoàn tất sửa chữa, Berkeley tiếp nối hoạt động hộ tống vận tải vào tháng 1 năm 1941. Vào ngày 22 tháng 2, nó đã hộ tống cho tàu khu trục Icarus (D03) trong Chiến dịch rải mìn JK ngoài khơi bờ biển nước Pháp. Trong thời gian còn lại của năm 1941, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải và tuần tra trong eo biển Manche. Vào tháng 2 năm 1942, nó tham gia một nỗ lực không thành công nhằm đánh chặn các thiết giáp hạm Đức Quốc xã Scharnhorst và Gneisenau khi chúng vượt qua eo biển Manche. Đại úy Hải quân James York nắm quyền chỉ huy con tàu vào ngày 27 tháng 3,[3] và nó tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến tháng 7, khi nó được chọn để tham gia lực lượng hải quân hỗ trợ cho Chiến dịch Jubilee. Vào ngày 18 tháng 8, nó hộ tống cho lực lượng tham gia cuộc Đột kích Dieppe.[4] Trong một cuộc không kích vào ngày 19 tháng 8, nó bị một máy bay Focke-Wulf Fw 190 ném trúng hai quả bom,[5] vốn đã làm vỡ lườn tàu và khiến thiệt mạng 13 thủy thủ.[6] Do hư hại nặng đến mức không thể kiểm soát, con tàu bị bỏ lại rồi bị đánh đắm bởi ngư lôi phóng từ tàu khu trục hộ tống Albrighton, và đắm tại tọa độ 49°59′B 01°02′Đ / 49,983°B 1,033°Đ.[7][8]
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Lenton 1970, tr. 87
- ^ “HMS Berkeley, escort destroyer, WW2”. www.naval-history.net. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ a b “HMS Berkeley (L 17) of the Royal Navy - British Escort destroyer of the Hunt (Type I) class - Allied Warships of WWII - uboat.net”. www.uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ Zuehlke, Mark (2 tháng 4 năm 2013). Tragedy at Dieppe: Operation Jubilee, August 19, 1942. Douglas & McIntyre. ISBN 9781553658351.
- ^ Goss, Chris; Cornwell, Peter; Rauchbach, Bernd (1 tháng 1 năm 2010). Luftwaffe Fighter-Bombers Over Britain: The Tip and Run Campaign, 1942-43. Stackpole Books. ISBN 9780811706919.
- ^ “HMS Berkeley”. www.hmscavalier.org.uk. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ Grehan, John; Mace, Martin (18 tháng 6 năm 2014). Liberating Europe: D-Day to Victory in Europe 1944-1945. Pen and Sword. ISBN 9781473838277.
- ^ Neillands, Robin (1 tháng 1 năm 2005). The Dieppe Raid: The Story of the Disastrous 1942 Expedition. Indiana University Press. ISBN 0253347815.
Thư mục
sửa- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
- Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. London: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.