Họ Cá sơn
Họ Cá sơn (danh pháp khoa học: Apogonidae) là một họ nhà cá phân bố ở các vùng biển thuộc Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Họ này chủ yếu là cá biển, nhưng một vài loài là cá nước lợ hay cá nước ngọt (chi Glossamia). Một số loài được nuôi trong bể cá cảnh và là cá nhỏ, đầy màu sắc và hiền lành. Họ này bao gồm khoảng 357 loài trong 40 chi.[1]
Họ Cá sơn | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Kurtiformes |
Họ (familia) | Apogonidae Günther, 1859 |
Các phân họ và chi | |
Xem bài. |
Họ này nói chung là các loài cá nhỏ, với phần lớn các loài ngắn hơn 10 cm (3,9 in), và thường có màu sắc sặc sỡ. Chúng được phân biệt bằng các miệng lớn (so với kích thước cơ thể), và sự phân chia vây lưng thành 2 vây tách biệt. Phần lớn các loài sinh sống trong các vùng nước nhiệt đới hay cận nhiệt đới, nơi chúng sinh sống trong các rạn san hô và các đầm phá.[2]
Chúng là cá hoạt động ban đêm, với thời gian ban ngày ẩn nấp trong các kẽ nứt tối tăm trong các ran san hô. Có một số loài ấp trứng trong miệng của cá bố.[2]
Phân loại
sửaHọ này theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes,[1] tuy nhiên gần đây người ta đã xem xét lại phát sinh chủng loài của cá và đề xuất tách họ này sang bộ Kurtiformes Günther, 1861.[3]
Các chi
sửaPhân loại thành 2 hoặc 3 phân họ. Chi tiết như sau:[1][4]
- Phân họ Amioidinae
- Phân họ Apogoninae
- Apogon
- Apogonichthyoides
- Apogonichthys
- Archamia
- Astrapogon
- Cercamia
- Cheilodipterus
- Fibramia[5]
- Foa
- Fowleria
- Glossamia
- Jaydia
- Lachneratus
- Lepidamia
- Neamia
- Nectamia
- Ostorhinchus
- Ozichthys[6]
- Paroncheilus[5]
- Phaeoptyx
- Pristiapogon
- Pristicon
- Pterapogon
- Quinca[5]
- Rhabdamia
- Siphamia
- Sphaeramia
- Taeniamia[4]
- Verulux[5]
- Vincentia
- Yarica[5]
- Zapogon
- Zoramia
- Phân họ Pseudamiinae
- Gymnapogon
- Paxton (từng xếp riêng trong phân họ Paxtoninae).
- Pseudamia
- Pseudamiops
Ấn bản lần thứ 5 của Fishes of the World chỉ công nhận 2 phân họ của Apogonidae là Apogoninae (gộp cả Amioidinae) và Pseudaminae.[7]
Chú thích
sửa- ^ a b c Chủ biên Ranier Froese và Daniel Pauly. (2019). "Apogonidae" trên FishBase. Phiên bản tháng 4 năm 2019.
- ^ a b Johnson G. D.; Gill A. C. (1998). Paxton J. R.; Eschmeyer W. N. (biên tập). Encyclopedia of Fishes. San Diego: Academic Press. tr. 183. ISBN 0-12-547665-5.
- ^ Ricardo Betancur-R., Richard E. Broughton, Edward O. Wiley, Kent Carpenter, J. Andrés López, Chenhong Li, Nancy I. Holcroft, Dahiana Arcila, Millicent Sanciangco, James C Cureton II, Feifei Zhang, Thaddaeus Buser, Matthew A. Campbell, Jesus A Ballesteros, Adela Roa-Varon, Stuart Willis, W. Calvin Borden, Thaine Rowley, Paulette C. Reneau, Daniel J. Hough, Guoqing Lu, Terry Grande, Gloria Arratia, Guillermo Ortí, 2013, The Tree of Life and a New Classification of Bony Fishes Lưu trữ 2020-11-11 tại Wayback Machine. PLOS Currents Tree of Life. 18-04-2013. Ấn bản 1, doi:10.1371/currents.tol.53ba26640df0ccaee75bb165c8c26288.
- ^ a b Fraser T. H. (2013). A new genus of cardinalfish (Apogonidae: Percomorpha), redescription of Archamia and resemblances and relationships with Kurtus (Kurtidae: Percomorpha). Zootaxa 3714 (1): 001–063.
- ^ a b c d e Mabuchi K., Fraser T. H., Song H., Azuma Y. & Nishida M. (2014). Revision of the systematics of the cardinalfishes (Percomorpha: Apogonidae) based on molecular analyses and comparative reevaluation of morphological characters. Zootaxa, 3846 (2): 151–203.
- ^ Fraser T. H. (2014).A new genus of cardinalfish from tropical Australia and southern New Guinea (Percomorpha: Apogonidae). Zootaxa 3852 (2): 283–293.
- ^ J. S. Nelson; T. C. Grande; M. V. H. Wilson (2016). Fishes of the World (ấn bản thứ 5). Wiley. tr. 752. ISBN 978-1-118-34233-6. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
Tham khảo
sửa- Dữ liệu liên quan tới Apogonidae tại Wikispecies
- Tư liệu liên quan tới Apogonidae tại Wikimedia Commons