Giải Oscar lần thứ 41
Giải Oscar lần thứ 41 diễn ra vào ngày 14 tháng 4 năm 1969 tại Dorothy Chandler Pavilion, Los Angeles. Đây là lễ trao giải đầu tiên dàn dựng tại Dorothy Chandler Pavilion và là lần đầu kể từ Giải Oscar lần thứ 11 không có chủ trì.
Giải Oscar lần thứ 41 | |
---|---|
Ngày | 14 tháng 4 năm 1969 |
Địa điểm | Dorothy Chandler Pavilion, Los Angeles |
Chủ trì bởi | không có |
Nhà sản xuất | Gower Champion |
Đạo diễn | Gower Champion |
Điểm nhấn | |
Phim hay nhất | Oliver! |
Nhiều giải thưởng nhất | Oliver! (5) |
Nhiều đề cử nhất | Oliver! (11) |
Phủ sóng truyền hình | |
Kênh truyền hình | ABC |
Oliver! trở thành phim đầu tiên—và đến nay vẫn là phim duy nhất— mang nhãn G-rated thắng Giải Oscar cho Phim hay nhất. Ngược lại, năm kế tiếp xuất hiện phim nhãn X-rated duy nhất giành giải Phim hay nhất, Midnight Cowboy. Oliver! cũng là phim Anh Quốc cuối cùng giành chiến thắng tại hạng mục này, trước Chariots of Fire vào năm 1982 và là phim nhạc kịch cuối cùng cho đến khi Chicago thắng giải năm 2003 (dù nhiều phim khác nằm trong đề cử như Hello, Dolly!, Fiddler on the Roof, Cabaret, All That Jazz, Beauty and the Beast, Moulin Rouge! và Les Misérables).
Với vai trò đạo diễn hiệu ứng đặc biệt và nhà thiết kế cho 2001: A Space Odyssey, Stanley Kubrick giành chiến thắng tại hạng mục giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất.[1] Tất cả phim đề cử trong mùa giải này, chỉ có 2001 là xuất hiện trong danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ và Oliver! là phim đề cử giải Oscar duy nhất trong năm này xuất hiện trong danh sách trên.
Mùa giải này nổi bật vì là lần đầu tiên—và hiện tại cũng là lần duy nhất—có kết quả hòa trong hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (hoặc trong bất kỳ thể loại diễn xuất nữ nào). Katharine Hepburn trong The Lion in Winter và Barbra Streisand trong Funny Girl cùng nhau chia sẻ giải thưởng này. Hepburn trở thành diễn viên thứ ba thắng giải Oscar cho diễn xuất trong 2 năm liền, chỉ đứng sau Luise Rainer vào năm 1936 (The Great Ziegfeld) và 1937 (The Good Earth); và Spencer Tracy vào năm 1937 (Captains Courageous) và 1938 (Boys Town). Năm trước đó, Hepburn giành giải thưởng cho Guess Who's Coming to Dinner.
Diễn xuất của Cliff Robertson trong Charly nhận nhiều phản hồi trái chiều từ giới phê bình lẫn khán giả. Khi ông thắng giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất, nhiều tranh cãi bắt đầu dấy lên: chưa đầy hai tuần sau lễ trao giải TIME đề cập đến nỗi lo ngại về "lượng phiếu chào mời quá mức và thông tục" và phát biểu "nhiều thành viên nhất trí rằng giải thưởng của Robertson chủ yếu dựa trên quảng bá hơn là diễn xuất."[2]
Tại lễ trao giải, Young Americans được xướng tên thắng giải Phim tài liệu hay nhất. Vào ngày 7 tháng 5 năm 1969, bộ phim bị loại vì được chiếu từ tháng 10 năm 1967 và không phù hợp cho mùa giải năm 1968. Journey Into Self sau đó được trao giải Oscar vào ngày 8 tháng 5 năm 1969.
Đề cử và giải thưởng
sửaPhim hoặc người thắng giải được in đậm.[3][4]
Phim có nhiều đề cử và giải thưởng
sửa
Phim có nhiều đề cử:
|
Phim có nhiều giải thưởng
|
Jean Hersholt Humanitarian Award
sửaGiải Oscar Danh dự
sửa- Walter Matthau trao cho John Chambers giải thưởng thành tựu hóa trang trong Planet of the Apes
- Diahann Carroll trao cho Onna White giải thưởng thành tựu biên đạo trong Oliver!.
Trình diễn
sửa- José Feliciano ("The Windmills of Your Mind" từ The Thomas Crown Affair)
- Aretha Franklin ("Funny Girl" từ Funny Girl)
- Abbey Lincoln ("For the Love of Ivy" từ For Love of Ivy)
- Sidney Poitier, Ingrid Bergman, Paula Kelly, Burt Lancaster và UCLA Band ("Chitty Chitty Bang Bang" từ Chitty Chitty Bang Bang)
- Frank Sinatra ("Star!" từ Star!)
Tham khảo
sửa- ^ Internet Movie Database. “Awards for Stanley Kubrick”. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
- ^ “The Trade: Grand Illusion”. TIME. ngày 25 tháng 4 năm 1969. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2013.
- ^ The Official Acadademy Awards® Database
- ^ “The 41st Academy Awards (1969) Nominees and Winners”. oscars.org. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2011.
Liên kết ngoài
sửa- Trang web chính thức