G-Dragon
Kwon Ji-yong (tiếng Hàn: 권지용; Hanja: 權志龍; Hán-Việt: Quyền Chí Long, sinh ngày 18 tháng 8, 1988),[1] được biết đến nhiều nhất với tên gọi G-Dragon (지드래곤), là một rapper, ca sĩ, nhạc sĩ và doanh nhân người Hàn Quốc, được mệnh danh là "Ông hoàng K-pop".[2][3][4][5] Sinh ra và lớn lên tại Seoul, Hàn Quốc, G-Dragon ra mắt vào năm 2006 và trở nên nổi tiếng với tư cách là trưởng nhóm của nhóm nhạc nam Hàn Quốc BigBang, sau này đã trở thành một trong những nhóm nhạc nam bán chạy nhất thế giới.[6][7]
G-Dragon | |
---|---|
![]() G-Dragon vào tháng 2 năm 2025 | |
Sinh | Kwon Ji-yong 18 tháng 8, 1988 Seoul, Hàn Quốc |
Tên khác | GD |
Học vị | Đại học Sejong (MA) |
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 1994–nay |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | |
Hãng đĩa | |
Cựu thành viên | |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 권지용 |
Romaja quốc ngữ | Gwon Jiyong |
McCune–Reischauer | Kwŏn Chiyong |
Hán-Việt | Quyền Chí Long |
Chữ ký | |
![]() |
Năm 2009, anh phát hành album solo đầu tiên Heartbreaker; album và ca khúc chủ đề cùng tên đã thành công về mặt thương mại, trở thành album bán chạy nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc vào thời điểm đó và mang về cho anh giải Album của năm tại Giải thưởng Âm nhạc châu Á Mnet 2009. Tiếp theo là sự hợp tác với người bạn cùng nhóm T.O.P cho album GD & TOP vào năm 2010. EP đầu tiên của anh là One of a Kind (2012), đã tạo ra ba đĩa đơn: "One of a Kind", "Crayon", và ca khúc đứng đầu bảng xếp hạng "That XX". EP đã giành giải Album xuất sắc nhất tại Giải thưởng âm nhạc Seoul năm 2013.
Năm 2013, anh bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên mang tên chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên với tư cách là một nghệ sĩ solo, trở thành nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên lưu diễn tại các sân vận động mái vòm ở Nhật Bản.[8] EP năm 2017 của anh, Kwon Ji Yong, đã cho ra đời đĩa đơn số một "Untitled, 2014", và chuyến lưu diễn Act III: M.O.T.T.E đã trở thành chuyến lưu diễn lớn nhất từng được một nghệ sĩ solo người Hàn Quốc thực hiện.[9] Năm 2023, G-Dragon chính thức rời YG Entertainment sau 20 năm hoạt động, ký hợp đồng với Galaxy Corporation dưới tên thật của mình.[10]
Được công nhận rộng rãi vì ảnh hưởng của mình đến văn hóa giới trẻ, xu hướng thời trang và âm nhạc ở Hàn Quốc,[11] G-Dragon đã được đưa vào danh sách 2030 Power Leaders của Forbes' trong ba năm liên tiếp (2012–2014), và đã là một phần của danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất trong thời trang của Hypebeast tám lần. Anh đã viết hoặc đồng sáng tác 24 bài hát đứng đầu trên Gaon Digital Chart hầu hết trong số đó anh cũng đồng sản xuất.[12][13] G-Dragon là người nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm tám Giải MAMA, sáu Melon Music Awards, hai Korean Music Awards và hai Golden Disc Awards, và là nghệ sĩ solo đầu tiên và duy nhất nhận được giải thưởng Giải MAMA cho Nghệ sĩ của năm (2013).[14]
Đầu đời và giáo dục
G-Dragon sinh ngày 18 tháng 8 năm 1988 tại Seoul, Hàn Quốc.[1] Anh đã đăng ký vào Đại học Kyung Hee năm 2008 để học nhạc hậu hiện đại. Sau đó, anh đã bỏ học vì lịch trình bận rộn của mình, và thay vào đó, anh đã theo học chuyên ngành Nghiên cứu thể thao giải trí tại Đại học Gukje Cyber, lấy bằng Cử nhân vào năm 2013. G-Dragon đã tốt nghiệp năm 2016 với bằng Thạc sĩ về nội dung và phân phối bán lẻ tại Đại học Sejong. Các kế hoạch lấy bằng tiến sĩ đã bị trì hoãn để phù hợp với việc nhập ngũ của anh.[15]
Sự nghiệp
1994–2008: Khởi đầu sự nghiệp
G-Dragon bắt đầu sự nghiệp của mình ở tuổi sáu với tư cách là thành viên của nhóm Little Roo'Ra.[16] Sau khi phát hành album Giáng sinh của nhóm, hợp đồng của nhóm đã bị công ty thu âm của họ chấm dứt, điều này đã gây sốc cho G-Dragon. Mặc dù anh đã thề với mẹ mình rằng anh "sẽ không [cố gắng trở thành ca sĩ] nữa", anh đã được SM Entertainment chiêu mộ trong một chuyến đi trượt tuyết cùng gia đình.[17] Anh là thực tập sinh của hãng thu âm SM Entertainment trong năm năm (từ 8 đến 13 tuổi), chuyên về vũ đạo trước khi rời đi.[16][18]
Vào năm lớp 3, một người bạn đã giới thiệu G-Dragon với nhóm nhạc rap Mỹ Wu-Tang Clan. Ảnh hưởng bởi âm nhạc của họ, anh bắt đầu quan tâm đến rap và bắt đầu tham gia các lớp học.[16] Sau khi tham dự một trường học mùa hè do nhóm nhạc hiphop Hàn Quốc People Crew tổ chức nơi mà anh gia nhập sau khi cầu xin mẹ mình, anh ấy được giới thiệu với Lee Hee Sung, thành viên của một nhóm nhạc hip hop Hàn Quốc khác X-teen , người đã cố gắng biến G-Dragon thành Bow Wow của Hàn Quốc.[19] Dưới sự hướng dẫn của People Crew's[20], anh ấy đã tham gia phát hành album nhạc hip-hop Hàn Quốc Korean hiphop Flex (대한민국 힙합플렉스 2001) năm 2001,[21] trở thành rapper trẻ nhất Hàn Quốc ở tuổi 13. Mặc dù anh ấy tự viết lời bài hát, anh ấy thừa nhận rằng tiếng Anh của mình còn yếu và câu chuyện đằng sau lời bài hát chỉ là một câu chuyện điển hình khác "Tôi còn trẻ, nhưng tôi là người giỏi nhất".[16] Ngoài ra, anh và thành viên tương lai của BigBang Choi Seung-hyun là "bạn hàng xóm từ thời trung học" và thường nhảy và đọc rap cùng nhau trước khi G-Dragon chuyển đi.[22] Thu hút sự chú ý của Sean của bộ đôi hip-hop Jinusean từ YG Entertainment, anh đã giới thiệu G-Dragon với CEO của hãng thu âm của Sean Yang Hyun Suk. Sau khi ký hợp đồng với hãng thu âm, G-Dragon đã dành năm đầu tiên để dọn dẹp phòng thu cho các nghệ sĩ khác trong hãng thu âm và lấy chai nước trong khi luyện tập vũ đạo.[16]
Anh đã chọn nghệ danh G-Dragon ("Ji" có phát âm giống "G", và Yong nghĩa là "rồng" trong tiếng Hàn).[17] Anh ấy góp mặt trong album của các nghệ sĩ khác và phát hành một số đĩa đơn với Dong Young-Bae (Taeyang) dưới cái tên "GDYB." Sau khi YG Entertainment hủy bỏ kế hoạch và thay vào đó lựa chọn một nhóm nhạc nam, G-Dragon đã liên lạc với Choi, người đã thử giọng.[22] G-Dragon, Taeyang và Choi (người chọn nghệ danh T.O.P) được ghép đôi với ba thành viên khác (Jang Hyun-seung, Daesung và Seungri).
Sự hình thành của nhóm đã được ghi lại trên truyền hình,[23] nhưng trước khi chính thức ra mắt, Jang đã bị loại.[17] Sự ra mắt của ban nhạc năm thành viên này đã đạt được thành công vừa phải, với album đầu tiên của họ đã bán được hơn 100.000 bản,[24] và bao gồm bản thu âm solo đầu tiên của G-Dragon, một bản cover ca khúc "This Love" của nhóm nhạc rock Mỹ Maroon 5.[23] Việc phát hành EP Always vào năm 2007 là một sự thay đổi về mặt âm nhạc so với các sản phẩm trước đó của họ và chứng kiến sự tham gia ngày càng nhiều của G-Dragon vào quá trình sản xuất.[25] Một số bài hát do anh sáng tác, bao gồm đĩa đơn chính "Lies", trở thành bản hit đầu tiên của nhóm đạt vị trí số một. Các EP tiếp theo của họ cũng theo bước sản phẩm tiền nhiệm: Hot Issue cho ra đời "Last Farewell" trong khi Stand Up cho ra đời "Haru Haru"; cả hai đĩa đơn do anh sáng tác đều đứng đầu bảng xếp hạng.[26][27] G-Dragon là người sản xuất phần lớn các ca khúc của BigBang, đồng thời cũng tham gia sản xuất album mở rộng đầu tay của Taeyang là Hot (2008).
2009–2011: Ra mắt solo và sự nổi tiếng về thương mại
Năm 2009, G-Dragon góp mặt trong bài hát "Super Fly" của ca sĩ Lexy cho album Rush của cô cùng với Taeyang và T.O.P. Sau đó, anh đã hợp tác với nhóm nhạc nam Nhật Bản W-inds. cho đĩa đơn của họ, "Rain Is Fallin'/Hybrid Dream".[28][29] Album solo đầu tiên của anh, Heartbreaker, được phát hành vào tháng 8 năm đó.[30][31] Có sự hợp tác với một số nghệ sĩ, bao gồm Teddy của 1TYM, Taeyang, Kush, CL và Sandara Park của 2NE1, và được thúc đẩy bởi đĩa đơn chính cùng tên, album đã bán được hơn 300.000 bản,[32][33] và giành giải Album của năm tại Giải MAMA 2009.[34] Ngay sau khi Heartbreaker được phát hành, G-Dragon đã bị cáo buộc đạo nhạc bởi Sony Music khi bài hát "Heartbreaker" và "Butterfly" của anh được cho là tương tự như "Right Round" của Flo Rida và "She's Electric" của Oasis.[35][36] Tuy nhiên, EMI, hãng thu âm phát hành "Right Round" cho biết họ không thấy có điểm tương đồng nào giữa hai bài hát này.[37]
Vào ngày 6 tháng 3 năm 2010, YG Entertainment thông báo rằng họ đã đích thân liên lạc với đại diện của Flo Rida để yêu cầu anh góp mặt trong album trực tiếp của G-Dragon, Shine a Light, mà Flo Rida đã chấp nhận.[38] Để quảng bá cho album của mình, G-Dragon đã tổ chức buổi hòa nhạc solo đầu tiên tại Olympic Gymnastics Arena vào tháng 12 năm 2009. Tên của buổi hòa nhạc, Shine a Light, bắt nguồn từ lời bài hát "A Boy" của anh.[39] Buổi hòa nhạc sau đó đã gây ra tranh cãi sau những lời phàn nàn về sự tục tĩu[40] và nội dung gợi ý.[41] Bộ Y tế, Phúc lợi và Gia đình Hàn Quốc sau đó đã yêu cầu các công tố viên chính phủ điều tra xem G-Dragon hoặc YG Entertainment có vi phạm luật về biểu diễn khiêu dâm trong buổi hòa nhạc của mình hay không.[42][43] Anh được tuyên bố vô tội và được xóa mọi cáo buộc vào ngày 15 tháng 3 năm 2010.[44][cần chú thích đầy đủ]
Vào tháng 11 năm 2010, G-Dragon và T.O.P đã phát hành album hợp tác của họ GD & TOP.[45] Trước khi phát hành album, bộ đôi này đã tổ chức buổi ra mắt album trên toàn thế giới tại Quảng trường Thời đại ở Quận Yeongdeungpo, Seoul,[46] cũng được phát trực tiếp trên YouTube.[47] Để quảng bá cho album của mình, bộ đôi này đã phát hành ba đĩa đơn: "High High", "Oh Yeah" và "Knock Out" (tiếng Hàn: 뻑이가요; Romaja: Ppeogigayo).[48] Cả ba đĩa đơn đều ra mắt trước khi phát hành album và đạt được thành công về mặt thương mại: "High High" đạt vị trí số một trên một số chương trình âm nhạc[49] trong khi "Oh Yeah" đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart.[50] Album được phát hành vào đêm Giáng sinh và ra mắt ở vị trí số một trên Gaon Album Chart[51] với số lượng đặt hàng trước là 200.000 bản.[52]
G-Dragon cũng đã thành lập một bộ đôi với Park Myung-soo cho Infinite Challenge Seohae Ahn Highway Song Festival 2011. Họ phát hành bài hát "Having an Affair" có sự góp mặt của Park Bom từ 2NE1 vào ngày 2 tháng 6 năm 2011. Bài hát sau đó đã trở thành bài hát được tải xuống nhiều thứ hai trên Gaon Music Chart năm 2011.[53]
2012–2013: Những năm đột phá và trở lại với Big Bang
Trong khi thực hiện các ca khúc solo mới, G-Dragon đã xuất hiện trong phiên bản tiếng Nhật của album Young Foolish Happy của Pixie Lott, cùng với T.O.P.[54] Đĩa nhạc mở rộng đầu tiên của anh ấy One of a Kind được phát hành vào ngày 15 tháng 9 năm 2012,[55][56] vẽ những đánh giá tích cực, cán đích đầu tiên trên Billboard World Album Chart và gia nhập Billboard 200 Chart ở vị trí 161.[57] Ba đĩa đơn được phát hành để hỗ trợ cho album: bản hit lọt top năm "One of a Kind,"[58][59] đã mang về cho anh giải thưởng Ca khúc nhạc Hip Hop và Rap hay nhất năm từ Korean Music Awards và Giải thưởng Rhythmer; ca khúc đứng đầu "That XX"[60] và bản hit top 3 "Crayon"[59] được Spin xếp hạng là đĩa đơn K-Pop hay nhất trong năm.[61] Album đã bán được hơn 200.000 bản, trở thành album solo bán chạy nhất tại Hàn Quốc kể từ khi phát hành album đầu tay Heartbreaker vào năm 2009.[62] Anh đã giành giải "Nghệ sĩ solo nam xuất sắc nhất" tại Giải thưởng âm nhạc châu Á Mnet lần thứ 14 và "Bản thu âm của năm" cho One of a Kind tại Giải thưởng âm nhạc Seoul lần thứ 22. G-Dragon cũng đã bắt đầu One of a Kind World Tour vào năm 2013, trở thành nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên tổ chức chuyến lưu diễn bốn sân vận động mái vòm tại Nhật Bản[63] và là nghệ sĩ solo Hàn Quốc thứ hai có chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới (nghệ sĩ đầu tiên là Rain). Chi phí sản xuất cho chuyến lưu diễn này là 3,5 triệu đô la, trở thành chuyến lưu diễn có quy mô lớn nhất trong lịch sử Hàn Quốc vào thời điểm đó.[64] Chuyến lưu diễn được tổ chức tại 8 quốc gia, ghé thăm 13 thành phố với tổng cộng 27 buổi hòa nhạc thu hút 570.000 người hâm mộ.[65]
Vào tháng 8 năm 2013, G-Dragon đã biểu diễn "Shake The World" như một phần mở đầu cho "One Of A Kind," "Feat. Missy Elliott" (Missy Elliott Ver.) và "Crayon" tại buổi hòa nhạc KCON 2013 ở Los Angeles.[66]
Sau chuyến lưu diễn rộng rãi, G-Dragon đã quay trở lại phòng thu để thu âm album phòng thu thứ hai của mình. YG Entertainment sau đó thông báo rằng nhạc sĩ từng đoạt giải Grammy Missy Elliott sẽ góp mặt trong album.[67] Coup d'Etat (2013) được phát hành thành hai phần trực tuyến, với toàn bộ album được phát hành dưới dạng vật lý vào ngày 13 tháng 9, có sự hợp tác với Diplo, Baauer, Boys Noize, Sky Ferreira, Siriusmo, Zion.T, Lydia Paek, và đồng nghiệp cùng hãng đĩa Jennie Kim. G-Dragon và Missy Elliott đã biểu diễn ca khúc "Niliria" tại KCON 2013 ở Los Angeles. Sáu ca khúc từ Coup d'Etat đã lọt vào top 10 của Gaon Digital Chart, bao gồm ca khúc số một "Who You?".[68] Đĩa đơn có thành tích tốt nhất của album là "Crooked", với hơn 1,8 triệu lượt tải xuống kỹ thuật số,[69] đó là video ca nhạc solo đầu tiên của anh vượt qua 100 triệu lượt xem trên YouTube.[70] Bài hát tiêu đề "Coup d'Etat" được Billboard chọn là một trong những bản nhạc EDM đột phá của năm 2013.[71] Album này đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200, giúp G-Dragon trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên có nhiều lần lọt vào bảng xếp hạng này.[72] Sự thành công của Coup d'Etat đã giúp G-Dragon giành được tổng cộng bốn giải thưởng tại Mnet Asian Music Awards lần thứ 15: Nghệ sĩ nam solo xuất sắc nhất, Video ca nhạc xuất sắc nhất cho "Coup d'Etat", Màn trình diễn xuất sắc nhất cho "Crooked", và giải thưởng cao nhất, Nghệ sĩ của năm.[73] Sau đó, anh đã giành giải Nghệ sĩ giải trí xuất sắc nhất thế giới và Album xuất sắc nhất thế giới tại World Music Awards.[74]
G-Dragon lại tham gia lễ hội âm nhạc Infinite Challenge lần thứ hai vào ngày 17 tháng 10 năm 2013, tại Imjingak, sáng tác và trình diễn ca khúc "Going to Try" cùng nghệ sĩ hài Jeong Hyeong-don.[75]
2014–2016: Album mới và thành công ngày càng tăng
Năm 2014, G-Dragon đã viết và sản xuất cho các nghệ sĩ khác của YG. Anh ấy đã viết ca khúc "Good to You" trong album của 2NE1 Crush. Anh cũng làm việc cho album thứ hai của Taeyang Rise, viết và sản xuất đĩa đơn chính "Ringa Linga" và "Stay With Me", và là nghệ sĩ góp mặt trong ca khúc sau.[76] Vào tháng 11 năm 2014, G-Dragon và Taeyang đã thành lập một bộ đôi GD X TAEYANG để phát hành đĩa đơn "Good Boy", ra mắt tại vị trí # 1 trên bảng xếp hạng Billboard's World Digital Songs, lần thứ ba một nghệ sĩ Hàn Quốc đứng đầu bảng xếp hạng sau PSY và 2NE1.[77] Đĩa đơn này đã có hơn 1,2 triệu lượt tải xuống ở Hàn Quốc,[78] trong khi video ca nhạc của họ đã vượt qua 100 triệu lượt xem trên YouTube; điều này đã đưa BigBang trở thành nhóm nhạc nam Hàn Quốc đầu tiên có ba video đạt nhiều lượt xem như vậy trên YouTube.[79] Vào tháng 12 cùng năm, G-Dragon đã hợp tác với Skrillex và Diplo cho bài hát "Dirty Vibe", có sự góp mặt của người bạn cùng công ty CL. Đĩa đơn này đã xếp hạng ở vị trí số 15 trên Billboard's Hot Dance/Electronic Songs và thứ 21 trên Dance/Electronic Digital Songs, khiến họ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng.[80][81][82] Năm 2015, anh đã viết và sản xuất một bài hát cho Welcome Back, album đầu tay của nhóm nhạc tân binh mới nhà YG iKON.[83]
G-Dragon đã dành phần lớn năm 2015 và 2016 để lưu diễn cùng nhóm nhạc của mình cho album tiếng Hàn thứ ba, biểu diễn cho hơn 3,6 triệu người hâm mộ trong hai năm.[84][85][86][87][88] Năm 2015, anh tham gia lễ hội âm nhạc Infinite Challenge lần thứ ba liên tiếp và lần đầu tiên cùng với thành viên cùng nhóm Taeyang. Bộ đôi này đã hợp tác với Hwang Kwanghee của ZE:A và phát hành đĩa đơn "Mapsosa", đạt vị trí số 2 trên Gaon Digital Chart,[89] và đã bán được 1,1 triệu bản vào cuối năm, trở thành một trong những bài hát bán chạy nhất năm 2015.[90] Anh ấy lại xuất hiện trong chương trình đó vào năm sau, trong chương trình đặc biệt Muhan Company, trong đó anh diễn xuất lần đầu tiên.[91][92] Ngoài ra, anh còn xuất hiện cùng với rapper người Anh M.I.A. trong bài hát của Baauer "Temple" từ album ra mắt của anh Aa.[93] Bài hát được xếp hạng ở vị trí số 36 trên Dance/Electronic Digital Songs và thứ 26 trên Hot Dance/Electronic Songs của Billboard, khiến anh trở thành nghệ sĩ nam Hàn Quốc đầu tiên lọt vào cả hai bảng xếp hạng.[94]
2017–2018: Kwon Ji Yong, chuyến lưu diễn phá kỷ lục và nghĩa vụ quân sự
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2017, G-Dragon đã góp mặt trong bài hát "Complex" của Zion.T[95] đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart.[96] Anh cũng là rapper khách mời cho đĩa đơn chính của IU "Palette," nằm trong album cùng tên của cô[97] đã đứng đầu bảng xếp hạng Gaon trong hai tuần liên tiếp.[98] Sau khi các hoạt động quảng bá cùng ban nhạc của mình kết thúc, G-Dragon bắt đầu chuẩn bị cho việc phát hành album mới cùng với chuyến lưu diễn solo.[99]
Đĩa đơn "Bullshit" được ấn định là đĩa đơn chính trước khi phát hành EP thứ hai mang tên EP của anh ấy.[100] Do vụ bê bối cần sa của thành viên cùng nhóm T.O.P và cái tên khiêu khích của đĩa đơn, "Untitled, 2014" đã được phát trên đài phát thanh để tránh gây thêm tranh cãi cho hãng thu âm của nghệ sĩ.[101] Từ bỏ phương pháp phát hành nhạc truyền thống trên Đĩa CD, Kwon Ji Yong đã được phát hành dưới dạng ổ USB flash vào ngày 8 tháng 6, gây ra sự chỉ trích từ Gaon, từ chối coi đây là album chính thức. Gaon đã đảo ngược quyết định của mình vào cuối năm đó, thừa nhận định dạng không theo thông lệ này là hợp pháp.[102] Album này đã đứng đầu bảng xếp hạng iTunes tại 46 quốc gia, nhiều nhất trong số các album của Hàn Quốc, bao gồm bảng xếp hạng iTunes của Hoa Kỳ. Kwon Ji Yong cũng đứng đầu bảng xếp hạng album trên toàn thế giới của iTunes và bảng xếp hạng iTunes châu Âu, giúp anh trở thành nghệ sĩ solo đầu tiên của Hàn Quốc làm được điều này.[103] Tại Hoa Kỳ, Kwon Ji Yong đã trở thành album bán chạy nhất của anh chỉ sau một ngày và là album thứ ba lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 và là album đầu tiên đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Heatseeksers Albums. Ngoài ra, EP đã trở thành đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng thứ ba của anh và là đĩa đơn đầu tiên của một nghệ sĩ solo người Hàn Quốc dành nhiều tuần đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Albums.[104][105] Tại Trung Quốc, album đã vượt qua con số 760.000 bản kỹ thuật số được bán ra trong một ngày trên QQ Music, trang web âm nhạc lớn nhất nước này.[106] Sáu ngày sau khi phát hành, album đã vượt qua mốc một triệu bản được bán ra, trở thành album đạt được thành tích này nhanh nhất và là album bán chạy nhất trong năm cho đến thời điểm hiện tại.[107] Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới lần thứ hai của anh, Act III: M.O.T.T.E, bắt đầu tại Sân vận động World Cup Seoul vào ngày 10 tháng 6, 2017[108][109] và đã ghé thăm 29 thành phố trên khắp Châu Á, Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương.[110][111] Chuyến lưu diễn này là chuyến lưu diễn lớn nhất của một nghệ sĩ Hàn Quốc tại Hoa Kỳ và Châu Âu, và là chuyến lưu diễn hòa nhạc lớn nhất từng được một nghệ sĩ solo Hàn Quốc thực hiện, với sự tham gia của 654.000 người trên toàn thế giới.[9][112][113] Một bộ phim tài liệu hậu trường về chuyến lưu diễn đã được YouTube Premium phát hành vào tháng 9 năm 2018.[114]
G-Dragon bắt đầu nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài hai năm vào ngày 27 tháng 2 năm 2018, bằng cách gia nhập trại huấn luyện của Sư đoàn Bộ binh số 3 ở tỉnh Gangwon với tư cách là một người lính tại ngũ, nơi anh xuất ngũ vào ngày 26 tháng 10 năm 2019 sau khi hoàn thành các yêu cầu.[115]
2020–nay: Xuất ngũ và rời YG Entertainment
Sau bốn năm gián đoạn, G-Dragon đã trở lại với tư cách là thành viên của BigBang với bài hát "Still Life" vào ngày 4 tháng 4 năm 2022.[116]
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2023, G-Dragon thông báo anh sẽ chuẩn bị một album trở lại.[117] Vào tháng 6 năm đó, YG thông báo rằng hợp đồng của G-Dragon đã hết hạn, mặc dù vẫn sẽ hợp tác với anh ấy trong các hoạt động như quảng cáo trong khi thảo luận thêm về việc gia hạn hợp đồng.[118][119][cần chú thích đầy đủ] Vào ngày 20 tháng 12, có thông báo rằng G-Dragon đã chính thức rời khỏi YG Entertainment.[120] Cùng ngày, Galaxy Corporation chính thức tuyên bố họ đã ký hợp đồng chính thức với G-Dragon, với kế hoạch anh sẽ trở lại vào năm 2024.[121]
Trong số ngày 30 tháng 10 của You Quiz on the Block, G-Dragon giới thiệu ca khúc mới đầu tiên của mình kể từ năm 2017, một đĩa đơn phát hành trước có tựa đề "Power".[122][123][124] Album được phát hành chính thức vào ngày 31 tháng 10, cùng với thông báo rằng G-Dragon đã ký hợp đồng phát hành nhạc với Empire Distribution.[125] Một bài hát mới khác, "Home Sweet Home" có sự góp mặt của hai thành viên Big Bang là Taeyang và Daesung, được phát hành vào ngày 22 tháng 11.[126] Bộ ba đã biểu diễn bài hát vào ngày hôm sau tại Giải MAMA 2024, cùng với "Power", "Untitled, 2014", "Fantastic Baby", và "Bang Bang Bang".[127] "Home Sweet Home" đạt vị trí số một trên Bảng xếp hạng kỹ thuật số Circle tại Hàn Quốc,[128] trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của anh. G-Dragon tiếp tục xuất hiện tại SBS Gayo Daejeon năm 2024 vào ngày 25 tháng 12 và tại Le Gala Des Pieces Jaunes ở Paris vào ngày 23 tháng 1 năm 2025, cùng với Taeyang.[129][130]
Vào ngày 4 tháng 2 năm 2025, đã xác nhận rằng album phòng thu thứ ba của G-Dragon có tựa đề Übermensch, sẽ được phát hành vào ngày 25 tháng 2.[131][132] Được coi là chương trình giải trí solo đầu tiên của G-Dragon,[133] rapper đã hợp tác với Kim Tae-ho, nhà sản xuất nổi tiếng của Infinite Challenge (2005–2018),[134] để tạo ra chương trình âm nhạc tạp kỹ, Good Day. Nó được công chiếu vào ngày 16 tháng 2 năm 2025, trên MBC và Disney+.[135]
Phong cách nghệ thuật
Âm nhạc
Lấy cảm hứng từ âm nhạc của Wu-Tang Clan và trích dẫn ca sĩ kiêm nhạc sĩ nhạc rap người Mỹ Pharrell Williams là "anh hùng âm nhạc" của mình,[136] Danh sách sản xuất đĩa nhạc của G-Dragon chủ yếu là hip hop.[137] Anh cũng đã liệt kê Jinusean, Fabolous và Kanye West là những người có ảnh hưởng.[138] Năm 12 tuổi, anh đã tham gia vào album nhạc hip hop thường niên Flex để khởi động sự nghiệp nghệ sĩ hip hop của mình.[16] Khi BigBang ra mắt, G-Dragon chủ yếu sản xuất các bài hát hip hop cho album của họ trước khi nhóm năm người này tách ra và thử nghiệm với nhạc điện tử, đưa nó trở thành xu hướng âm nhạc mới ở Hàn Quốc.[139] Trong khi ban nhạc tiếp tục kết hợp nhiều thể loại khác nhau vào các tác phẩm của mình, G-Dragon chủ yếu tập trung vào hip hop cho các nỗ lực solo của mình và hai nhóm nhỏ mà anh tham gia (GD & TOP, GD X Taeyang) để đối chiếu âm nhạc của BigBang.[47][140]
Album đầu tiên Heartbreaker là sự kết hợp giữa nhạc dance, hip-hop và R&B[141] trong khi nhạc acoustic, nhạc hip hop và nhạc điện tử chịu ảnh hưởng đến GD & TOP.[47] Bài hát "Crayon" từ EP One of a Kind là sự kết hợp giữa nhạc hip-hop và nhạc điện tử[142] trong khi "One of a Kind" là bài hát hip hop và pop-rap.[143][nguồn không đáng tin?] Album thứ hai của G-Dragon, Coup d'Etat, được biết đến là sự kết hợp chiết trung giữa hip-hop, dubstep, rock, electro và pop,[144] với Jessica Oak từ tạp chíBillboard mô tả bài hát tiêu đề album, được đồng sản xuất bởi DJ người Mỹ Diplo và Baauer, là một bài hát có nhịp độ chậm chịu ảnh hưởng của trap.[145] Bài hát lấy mẫu từ bài hát "The Revolution Will Not Be Televised" của Gil Scott-Heron.[146] "Crooked" được mô tả là "một thể loại pop-punk tổng hợp, cực kỳ hấp dẫn" với âm thanh "sáng như đèn neon",[147] kết hợp "tiếng trống mạnh mẽ và tiếng riff guitar metal"[148] và có "bassline mạnh mẽ và âm thanh được khuếch đại hoàn toàn ở phần điệp khúc."[149] Trong ca khúc này, G-Dragon còn kết hợp rap với hát.[148] "Niliria" được biết đến vì có âm hưởng dân tộc và siêu thực.[150]
Kwon Ji Yong tiếp tục có các bài hát thuộc thể loại hip-hop và R&B, ngoại trừ đĩa đơn chính, "Untitled, 2014", là một bản ballad. Mặc dù chủ yếu là một rapper, bản sau cũng có G-Dragon chỉ hát trên một "đệm piano đơn",[151] với việc Jeff Benjamin của Fuse so sánh bài hát với Someone like You của Adele vì sự đơn giản của nó.[152] Bài mở đầu, "Middle Fingers-Up", có một đoạn riff piano với nhịp trap cơ bản.[153][nguồn không đáng tin?] Act I. hoặc "Bullshit" là một bản nhạc hip-hop nhiều lớp đặc trưng bởi điệp khúc sôi động và nhịp điệu và nhịp điệu thay đổi đột ngột.[154] Act II. hoặc "Super Star" là một bản nhạc chậm kết hợp với nhạc trap, đầy tiếng trống đồng, kèn Trung Đông, tiếng tổng hợp du dương và điệp khúc đệm.[154] Bài kết thúc, "Divina Commedia", là một ca khúc R&B thử nghiệm lấy mẫu từ "Veridis Quo" từ album Discovery năm 2001 của Daft Punk.[154]
Lời nhạc và chủ đề
G-Dragon viết phần lớn lời bài hát của mình, giải thích rằng "mỗi cảm xúc [khi sáng tác nhạc] đều khác nhau",[155] sử dụng cảm xúc của mình để chỉ đạo nội dung lời bài hát và sáng tác các bài hát của mình.[156] Thích viết lời bài hát "nghe giống như một câu chuyện có thật","[36] G-Dragon cho biết anh đã truyền vào quá trình sáng tác của mình "một cảm giác rùng rợn" khi viết những bài hát giống như phim kinh dị, như "She's Gone", "Window" và "That XX".[144] Tạp chí Spin viết rằng âm nhạc của G-Dragon "táo bạo theo tiêu chuẩn K-pop, cực kỳ sáng tạo theo bất kỳ tiêu chuẩn nào" và rằng nam rapper này có vẻ "không ngại tiến về phía trước".[157]
— G-Dragon[138]
The Guardian lưu ý rằng các bài hát của anh nổi bật với "những chủ đề sâu sắc hơn bao gồm tự hủy hoại và ái kỷ."[158] Lời bài hát "A Boy" là để đáp lại những lời chỉ trích tiêu cực xung quanh vụ bê bối đạo nhạc năm 2009 của anh, khi nghệ sĩ này từ chối từ bỏ sự nghiệp của mình bất chấp những thất bại.[159] "Crooked" được tạo ra để thể hiện thái độ punk tự nhiên của anh[144] bằng cách mô tả một người đàn ông "đầy lo lắng và tuyệt vọng" đòi được ở một mình khi anh ta dành cả đêm "như một 'người có đầu óc gian xảo', bởi vì cuối cùng, anh ta cô đơn và không cần bất kỳ 'sự thông cảm ngọt ngào' nào của bất kỳ ai.'"[148] Việc anh sử dụng ngôn ngữ tục tĩu trong "That XX" đã gây ra nhiều tranh cãi và bài hát này bị coi là không phù hợp với người nghe dưới 19 tuổi.[160] Thảo luận về các chủ đề "thô tục" như tiền bạc và danh vọng,[143][161] "One of a Kind" từ EP cùng tên thường được xem là một trong những tác phẩm hay nhất của anh, tạp chí Ize liệt kê đây là một trong những bài hát đáng nhớ nhất do G-Dragon sáng tác, nhận xét rằng nó đã nâng cao vị thế của anh như một nhạc sĩ hip-hop.[162] "Middle Fingers Up" từ Kwon Ji-Yong nói về số lượng các mối quan hệ cá nhân ngày càng giảm sút và vòng tròn xã hội ngày càng thu hẹp của anh[162] trong khi lời bài hát "Bullshit" mang tính tự tham chiếu, ám chỉ đến "Crayon" theo tên trong khi từ tượng thanh chó gợi nhớ đến ca khúc chủ đề của album gần nhất của anh Coup d'Etat.[154] Anh có cách tiếp cận hối hận hơn trong "Untitled, 2014", với lời xin lỗi của nam rapper về "những hành động trong quá khứ, cầu xin sự tha thứ và cơ hội được gặp lại người yêu cũ dù chỉ là một lần nữa hoặc trong giấc mơ" trong những gì được mô tả là "một bức thư gửi người yêu cũ".[152]
Anh cũng khám phá những chủ đề khác với tư cách là nhà sản xuất cho BigBang: "If You" được lấy cảm hứng từ thời điểm nghệ sĩ đang yêu,[163] "Bae Bae" được lấy cảm hứng từ tác phẩm của nghệ sĩ người Anh Francis Bacon và chủ nghĩa khiêu dâm trong các bức tranh của ông,[164] trong khi "Loser" được viết ra nhằm mục đích nhân cách hóa nhóm.[165] Để phân biệt mình với những nghệ sĩ và nhạc sĩ khác, G-Dragon thừa nhận "tạo nên sự thay đổi ở mọi góc độ và gợi lên [một] câu chuyện khác nhau" với từng phần trong âm nhạc của mình, thừa nhận rằng mặc dù điệp khúc là phần hấp dẫn nhất của bài hát, anh muốn tất cả các phần trong bài hát của mình đều được ghi nhớ.[155] Ngoài việc sản xuất các bài hát cho ban nhạc của riêng mình, G-Dragon cũng đã sản xuất cho các nghệ sĩ khác, bao gồm cả sự nghiệp solo của các thành viên cùng nhóm Taeyang,[166] Seungri và Daesung, và các đồng nghiệp cùng hãng YG Entertainment iKon và 2NE1.[167] Anh thường được mô tả là một người "cầu toàn" và rất khắt khe trong các buổi thu âm.[168][169][170]
Sân khấu và bản ngã
Sự hiện diện trên sân khấu và màn trình diễn của G-Dragon đã được đón nhận nồng nhiệt.[171] Trong bài đánh giá cho One of a Kind World Tour của mình, Billboard khẳng định rằng G-Dragon là một "nghệ sĩ biểu diễn cực kỳ năng động" và đã phá vỡ mọi giới hạn trong chuyến lưu diễn này, được mô tả là "sôi động" và "mang đẳng cấp Michael Jackson".[172] MWave tuyên bố rằng G-Dragon đã chứng tỏ anh thực sự là một người độc nhất vô nhị khi "anh ấy bùng nổ với phong cách và cá tính riêng trong suốt buổi hòa nhạc." Nhà phê bình kết luận rằng nam rapper "lấp đầy mọi ngóc ngách của sân khấu một cách hoàn hảo bằng sự hiện diện solo của mình."[173] Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới lần thứ hai của anh, Act III: M.O.T.T.E, nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình và người hâm mộ và được đánh giá là gần gũi hơn.[174][175][nguồn không đáng tin?] Trong bài đánh giá về một trong những buổi biểu diễn của anh tại Thái Lan, Riddhi Chakraborty từ Rolling Stone India đã khen ngợi nam ca sĩ kiêm rapper này vì đã mang đến "những vũ đạo chính xác" với "sự nhiệt tình không lay chuyển [...] và sự trung thực tàn bạo"[4] trong khi Kimberly Lim từ The New Paper cũng lưu ý rằng G-Dragon đã "thực hiện những động tác thách thức trọng lực và khéo léo" tại một trong những buổi hòa nhạc của anh ở Ma Cao.[176]
Billboard K-Town mô tả các tác phẩm của anh là có quy mô lớn, kịch tính và thấm đẫm cá tính của anh,[177] thường có sự tham gia của một ban nhạc sống cùng các vũ công chuyên nghiệp, nhiều trang phục khác nhau và sử dụng pháo hoa.[4][178] Trang phục biểu diễn của nam ca sĩ - rapper này cũng thu hút sự chú ý khi tạp chí Dazed nhận xét rằng G-Dragon có "khả năng hiếm có là thoải mái và hoang dã trong những lựa chọn trang phục của mình", và kết hợp những bộ trang phục "biến điều vô lý thành tuyệt vời, [và] điều không thực tế thành điều cần thiết".[179] G-Dragon giải thích rằng trong khi "trang phục trên sân khấu của anh rất nổi bật, táo bạo, quyến rũ và sang trọng", chúng rất khác so với "trang phục thường ngày" của anh, anh thích mặc những bộ trang phục "nổi bật và táo bạo" khi biểu diễn so với phong cách giản dị hơn ngoài đời.[179]
Trong khi quảng bá EP Kwon Ji Yong, G-Dragon tiết lộ rằng ban đầu anh tạo ra bản ngã khác là G-Dragon để tách biệt tính cách trên sân khấu với con người thật của anh. Seoul Beats mô tả G-Dragon là "quyến rũ, tự phụ, [và] tràn đầy năng lượng", so với tính cách "khiêm tốn [và] giản dị" ngoài đời thực của anh.[180][nguồn không đáng tin?] Trong một cuộc phỏng vấn năm 2017 với Elle, anh mô tả G-Dragon là người "tràn đầy tự tin" và là "một người sang trọng và mạnh mẽ" trong khi Kwon Ji-yong là "một chàng trai hướng nội" với "nhiều suy nghĩ trong đầu".[181] Sau khi phát hành Kwon Ji Yong và trong khi lưu diễn Act III: M.O.T.T.E, G-Dragon bày tỏ mong muốn tách mình khỏi bản ngã khác của mình.[176][182] Rolling Stone India lưu ý rằng trong tiết mục thứ ba của buổi hòa nhạc, người hâm mộ đã có thể chứng kiến "G-Dragon có vẻ ngoài khá đáng sợ biến mất thành Ji Yong nhút nhát".[4]
Hình ảnh công chúng
G-Dragon kiểm soát chặt chẽ sự nghiệp của mình, công khai phản đối quan điểm coi ca sĩ là "sản phẩm" của ngành giải trí và chỉ trích các công ty quản lý không trao quyền sáng tạo cho nghệ sĩ.[184] Được biết đến với việc liên tục thay đổi hình ảnh và phong cách của mình qua nhiều năm, nam ca sĩ kiêm rapper này thường được miêu tả là thành viên "thời trang nhất" trong nhóm BigBang.[185] Trong thời gian quảng bá cho Heartbreaker, kiểu tóc vàng của anh đã trở nên phổ biến trong cộng đồng người hâm mộ và trở thành một trong những kiểu tóc đẹp nhất năm.[186] Anh ấy đã liên tục thay đổi mái tóc của mình qua nhiều năm, từ nhiều sắc thái màu sắc khác nhau cho đến nhiều kiểu cắt khác nhau.[187] Ngoài ra, việc anh liên tục đội khăn quàng cổ hình tam giác trong quá trình quảng bá EP Always của BigBang đã trở thành xu hướng trong giới thanh thiếu niên và sau đó được đặt biệt danh là "khăn quàng cổ Big Bang".[188]
G-Dragon được chú ý nhờ vẻ ngoài phi giới tính,[189][190] với việc Korea JoongAng Daily gọi anh là "một ngôi sao đáng chú ý theo phong cách phi giới tính", lưu ý rằng hình ảnh của anh khác biệt so với kiểu giới tính cố định của đàn ông và phụ nữ.[191] Tạp chí Vogue tuyên bố rằng vẻ ngoài phi giới tính hoặc chuyển đổi giới tính của ông thách thức một "xã hội vẫn duy trì các giá trị truyền thống, gia trưởng và tuân thủ chặt chẽ các lý tưởng về vẻ đẹp được tạo ra".[192] Khi hợp tác với nhà thiết kế giày người Ý Giuseppe Zanotti để ra mắt bộ sưu tập giày nam và nữ phiên bản giới hạn, ông tuyên bố rằng "không chỉ các cô gái hay phụ nữ mới cảm thấy phấn khích và thích thú với những đôi giày đẹp. [...] [C]hính các chàng trai cũng có thể cảm thấy như vậy."[193][194] Thời trang của G-Dragon được Rushali Pawar của International Business Times mô tả là "kỳ quặc và mang tính thử nghiệm"[195][nguồn không đáng tin?] trong khi Taylor Glasby từ Tạp chí Anh Dazed and Confused mô tả phong cách của anh là "linh hoạt và sâu rộng", gọi anh là "tắc kè hoa phong cách tự nhiên".[196] Monica Kim từ Tạp chí Vogue ngưỡng mộ "năng khiếu kỳ lạ của anh về phong cách thời trang phóng khoáng nhưng vẫn sành điệu".[197] Joe Coscarelli từ The New York Times gọi anh là "một biểu tượng phong cách, một tắc kè hoa thường khiến cho Lady Gaga thời kỳ đỉnh cao có vẻ nghiêm trang".[198] Anh đã lên bìa nhiều ấn bản của W, Dazed, Hypebeast, Elle, Vogue, và viết bài xã luận cho Harper's Bazaar, Esquire, cùng nhiều tạp chí châu Á khác.[199]
Năm 2011, G-Dragon chia sẻ rằng ban đầu anh rất tự ti về vai trò của mình là một nhạc sĩ, lưu ý rằng anh đã "thay đổi nhiều thứ bao gồm cả tông giọng vì tôi ý thức được công việc của mình khi đứng trước mặt người khác".[200] Nhận thức được rằng hình ảnh công chúng của mình rất quan trọng khi quảng bá các sản phẩm của mình, G-Dragon lưu ý rằng "những gì công chúng nhìn nhận về [tôi] là do tôi làm nên đó là lỗi của tôi nếu tôi thể hiện ý định sai trái".[200] Đến năm 2015, anh đã trở nên thoải mái hơn, tuyên bố rằng bây giờ anh không "làm nhạc hay ăn mặc chỉ để gây ấn tượng với mọi người xung quanh. Tôi không cố gắng để ý [về âm nhạc và thời trang]".[201]
G-Dragon được The Chosun Ilbo bình chọn là Người nổi tiếng ăn mặc đẹp nhất năm 2012,[202] trong khi vào năm 2014, anh được bình chọn là một trong những Ngôi sao phong cách đường phố mặc đẹp nhất của năm bởi Tạp chí New York.[203] G-Dragon được đưa vào danh sách 500 nhà dẫn đầu thời trang toàn cầu của Business of Fashion năm 2015 và 2016, trở thành một trong năm người Hàn Quốc có tên trong danh sách này và là nghệ sĩ K-Pop duy nhất lọt vào danh sách này.[204][205] Anh cũng là người Hàn Quốc duy nhất có mặt trong danh sách 100 Innovators của Hypebeast.[206]
Các dự án khác
Kinh doanh
Vào năm 2012, G-Dragon đã xây dựng một khách sạn nghỉ dưỡng tại Gyenggi-do như một món quà tặng cho gia đình, bỏ ra khoảng 1 tỷ won (920.000 đô la Mỹ vào thời điểm đó) để giúp tài trợ cho nó. Khu nghỉ dưỡng bao gồm 11 phòng.[207] Vào ngày 20 tháng 10 năm 2015, G-Dragon chính thức khai trương quán cà phê đầu tiên của mình tại Đảo Jeju, với tên gọi "Monsant Cafe".[208][209] Ban nhạc indie Hàn Quốc Hyukoh là nghệ sĩ đầu tiên biểu diễn tại quán cà phê vào tháng 9 năm 2015.[210] Vào năm 2017, quán cà phê thứ hai của anh mang tên "Untitled, 2017", lấy cảm hứng từ tiêu đề của đĩa đơn gần đây nhất của anh, đã được xây dựng, cùng với một đường bowling do G-Dragon thiết kế. Nó nằm trong khu phức hợp tòa nhà YG Republique của YG Entertainment YG Town thuộc khu nghỉ dưỡng Jeju Shinhwa World, nơi anh là đại sứ.[211]
Quảng cáo và hoạt động thương mại
G-Dragon cùng với BigBang là một trong những người nổi tiếng được trả lương cao nhất tại Hàn Quốc thông qua hợp đồng quảng cáo, được cho là có mức giá yêu cầu là 1–1,5 triệu đô la Mỹ cho mỗi hợp đồng quảng cáo vào năm 2011.[212] Vào tháng 8 năm 2015, anh trở thành gương mặt đại diện của Airbnb tại thị trường Châu Á.[213] Vào năm 2016, G-Dragon bắt đầu quảng cáo cho Shinsegae, nhà bán lẻ lớn nhất tại Hàn Quốc và sản phẩm của anh được cho là chiếm hơn 49% doanh số bán hàng tại cửa hàng YG.[214] Anh cũng là người quảng cáo cho nhãn hiệu đồ thể thao Ý Kappa nhân kỷ niệm 100 năm thành lập của họ và có thông tin cho rằng anh đã kiếm được 1,9 triệu đô la Mỹ từ thương hiệu này.[215][216] Anh được chọn làm gương mặt đại diện cho mẫu xe ý tưởng Verna của Hyundai, xuất hiện tại một triển lãm ô tô ở Bắc Kinh, nơi có 10.000 người hâm mộ tụ tập để tận mắt nhìn thấy anh.[217] Năm 2017, G-Dragon đã quảng cáo cho Vidal Sassoon tại Trung Quốc,[218] anh ấy cũng tham gia chiến dịch toàn cầu Air Max Day của Nike và quảng cáo cho giày Vapormax, khiến các cửa hàng trực tuyến tại Hàn Quốc ngay lập tức bán hết hàng.[219] Cùng năm đó, anh được công bố là đại sứ chính thức của khu nghỉ dưỡng sang trọng Jeju Shinhwa World, tọa lạc trên đảo Jeju, nơi anh trực tiếp tham gia phát triển khu phức hợp nghỉ dưỡng.[220] Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, anh đã trở thành đại sứ cho các thương hiệu như Nongfu Spring,[221] dầu gội TS,[222] Tiger Beer,[223] xe BMW XM,[224] và Ngân hàng Tài chính Hana.[225]
Thời trang và mỹ thuật
Năm 2013, G-Dragon hợp tác với Ambush cho một bản phát hành hợp tác đặc biệt bao gồm trang phục và phụ kiện. Bộ sưu tập làm nổi bật biểu tượng đặc trưng của G-Dragon bằng cách sử dụng thiết kế trong toàn bộ bản phát hành.[226] Năm 2014, anh hợp tác với công ty trang sức Chow Tai Fook Enterprises và cho ra mắt bộ sưu tập do chính anh thiết kế.[227][228] G-Dragon đã mở một triển lãm nghệ thuật vào năm 2015 với tên gọi Peaceminusone: Beyond the Stage.[229] Triển lãm trưng bày 200 tác phẩm mỹ thuật của 12 nghệ sĩ trong nước và quốc tế, bao gồm Michael Scoggins, Sophie Clements và James Clar.[230] Sau hơn một năm thực hiện triển lãm, mục tiêu của chúng tôi là kết hợp mỹ thuật hiện đại và văn hóa đại chúng để "giới thiệu nghệ sĩ trong nước đến công chúng, những người chưa quen với mỹ thuật hoặc thấy mỹ thuật khó tiếp cận".[229] Triển lãm được tổ chức tại Bảo tàng Mỹ thuật Seoul từ ngày 6 tháng 6 đến ngày 23 tháng 8.[231] Anh cũng đã hợp tác với Giuseppe Zanotti và thiết kế hai kiểu giày phù hợp cho cả nam và nữ.[232] G-Dragon là một nhà sưu tập nghệ thuật nhiệt thành, được đưa vào danh sách 50 nhà sưu tập nghệ thuật đáng chú ý năm 2019 của ARTnews. Bộ sưu tập của anh bao gồm Millionare Nurse của Richard Prince, được bán tại một cuộc đấu giá của Sotheby's năm 2014 với giá 3,3 triệu đô la.[233] Anh cũng sở hữu các tác phẩm George Condo Big John và bộ tứ tác phẩm Jean-Louis, Jean Louis với một bên tai, Vợ của Jean Louis và Chị gái của vợ Jean Louis.[234] Anh đã tổ chức một cuộc đấu giá một số tài sản của mình thông qua nhà đấu giá Joopiter của Pharrell Williams vào tháng 9 năm 2024: bao gồm các mảnh quần áo, tác phẩm nghệ thuật và đồ nội thất. Cuộc đấu giá đi kèm với một cuộc triển lãm tại bảo tàng Daelim.[235]
Năm 2016, anh hợp tác với thương hiệu 8 Seconds, một phần của Samsung C&T Fashion Group, thiết kế bộ sưu tập thời trang đường phố đầu tiên của mình. Bộ sưu tập có thiết kế "phi giới tính" sáng tạo, phù hợp với cả nam và nữ.[236] Sau đó, anh tiếp tục thiết kế ba bộ sưu tập cho thương hiệu này.[237] Vào tháng 10 cùng năm, G-Dragon đã ra mắt thương hiệu thời trang cá nhân Peaceminusone với stylist lâu năm Gee Eun. Bộ sưu tập đầu tiên bao gồm áo phông, mũ lưỡi trai, đồ trang sức và tai nghe nhét tai.[238] Ban đầu là một dòng sản phẩm chỉ bán trực tuyến, sau đó đã được mở cửa hàng thực tế tại Dover Street Market ở London và Seoul.[239][240] Peaceminusone đã hợp tác với Ambush vào tháng 11 cho ra mắt bộ sưu tập trang phục denim, đánh dấu lần hợp tác thứ ba của anh với nhãn hiệu này.[241] Cùng năm đó, anh đóng vai chính trong chiến dịch chính thức cho bộ sưu tập Thu Đông 2016 của nhãn hiệu thời trang Juun.J có trụ sở tại Seoul cùng Taeyang.[242] Anh cũng trở thành đại sứ thương hiệu cho hãng thời trang Pháp Chanel,[243] và đóng vai chính trong chiến dịch túi xách Gabrielle của nhãn hiệu này vào năm 2017, cùng với Pharrell.[199][244]
Vào năm 2017, G-Dragon đã khai trương các cửa hàng pop-up cho thương hiệu Peaceminusone của mình, bắt đầu từ Seoul và tiếp tục ở Miami,[245][246] Osaka và Hong Kong.[247] Cuối năm đó, anh hợp tác với tạp chí Vogue để mở một cửa hàng pop-up khác ở Seoul, bán trang phục Peaceminusone X Vogue phiên bản giới hạn.[248] Anh cũng đã hợp tác với nhà bán lẻ Pháp Colette và sản phẩm này được bán trên cửa hàng trực tuyến của anh.[249] Năm 2019, anh đã hợp tác với Nike, ra mắt giày PEACEMINUSONE Para-Noise Air Force 1.[250] Phiên bản thứ hai của giày PEACEMINUSONE Para-Noise Air Force 1 màu trắng đã được phát hành vào năm 2020.[251][252] Những sự hợp tác tiếp theo, PEACEMINUSONE x Nike Kwondo 1 và PEACEMINUSONE x Nike Kwondo 1 "Panda", được ra mắt lần lượt vào tháng 12 năm 2021 và tháng 4 năm 2023.[253][254]
Anh đã đóng góp vào cuốn sách mang tên AMBUSH dự kiến được Rizzoli xuất bản vào ngày 4 tháng 3 năm 2025.[255]
Từ thiện
G-Dragon đã thể hiện sự ủng hộ cho nhiều tổ chức từ thiện trong nhiều năm qua. Đáng chú ý, buổi hòa nhạc cuối cùng trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của anh vào năm 2013, một gian hàng đã được dựng lên nơi người hâm mộ có thể quyên góp để xây dựng một ngư trường ở Haiti, như một sự hợp tác với Chiến dịch With của YG Entertainment, mà trước đây anh đã hợp tác để giúp xây dựng một trường học ở Nepal.[256] Cũng tại sự kiện này, anh và người hâm mộ từ 14 quốc gia trên thế giới đã quyên góp 9,9 tấn gạo để giúp đỡ trẻ em suy dinh dưỡng, người già neo đơn và những người khác có nhu cầu.[257][258] Theo như đưa tin, anh đã quyên góp 81,8 triệu won (80.000 đô la Mỹ) mỗi năm vào ngày sinh nhật của mình.[259] G-Dragon đã quyên góp 50 triệu won (43.400 đô la Mỹ) vào năm 2011 (khi người hâm mộ quyên góp dưới tên anh) và vào năm 2012 (riêng tư) cho Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul để giúp trẻ em mắc bệnh được điều trị. Điều này đã được tiết lộ một cách tình cờ vào năm 2017 khi tên anh được khắc trên một tấm bảng vinh danh những người đã đóng góp 100 triệu won trở lên.[260]
G-Dragon đã sử dụng hình ảnh của mình để nâng cao nhận thức cho nhiều mục đích, bao gồm UNHCR[261] và Product Red để chống lại AIDS.[262] Ngoài ra, vào tháng 5 năm 2017, một khu rừng cây họ cam chanh đã chính thức được mở cửa, Seogwipo trên đảo Jeju, được đặt theo tên thật của G-Dragon, Kwon Ji-yong. Trái cây thu hoạch được từ khu rừng sẽ được quyên góp cho các sự kiện từ thiện.[263]
Vào tháng 12 năm 2023, G-Dragon tuyên bố anh sẽ thành lập Quỹ JusPeace để chống lại chứng nghiện ma túy và hỗ trợ các nghệ sĩ. Quỹ được thành lập vào tháng 8 năm 2024. Anh đã quyên góp 300 triệu won (230.000 đô la Mỹ vào thời điểm đó) để giúp khởi động quỹ và giữ chức chủ tịch danh dự.[10][264][265]
Giải thưởng và thành tựu
Ảnh hưởng văn hóa và di sản
Được mô tả là "một ca sĩ-nhạc sĩ thiên tài" bởi The Korea Times,[36] Vai trò của G-Dragon trong việc sản xuất nhiều sản phẩm của BigBang ngay từ giai đoạn đầu sự nghiệp được coi là "bất thường" vào thời điểm đó, vì hầu hết các ban nhạc K-pop đều được sản xuất thay vì tự sáng tác.[266] Sự tham gia của anh đã định hình cách các nhóm nhạc thần tượng mới tương tác với âm nhạc của họ, khi The Korea Times thừa nhận rằng "sự nổi tiếng chưa từng có" và sự công nhận của anh "đã truyền cảm hứng cho nhiều người trẻ muốn trở thành thần tượng trở thành ca sĩ-nhạc sĩ".[267] Các nghệ sĩ đã trích dẫn tác phẩm của anh như một nguồn ảnh hưởng bao gồm Zico,[268][nguồn không đáng tin?] Be'O,[269] BamBam của Got7,[270] Jungkook và J-Hope của BTS,[271] Ricky của Zerobaseone,[cần dẫn nguồn] Rocky của Astro,[272] S.Coups của Seventeen,[273] Jaden Smith,[274] Younha,[275] One,[276] Lee Seung-hwan,[277] Kim Eana,[278] DinDin,[279] và Grimes, người nói rằng K-pop, đặc biệt là G-Dragon, đã ảnh hưởng đến phong cách âm nhạc của cô "nhiều hơn về mặt hình ảnh so với bất kỳ điều gì khác".[280][281] Người chiến thắng của Mix Nine Woo Jin-young đã tuyên bố rằng "This Love" của G-Dragon đã truyền cảm hứng cho anh trở thành một rapper.[282]
Âm nhạc của anh đã nhận được sự đánh giá cao từ các nhà phê bình. Bài hát "One of a Kind" được liệt kê trong cuốn sách về những bài hát hip hop Hàn Quốc có ảnh hưởng nhất từ năm 1989 đến năm 2016 của nhà phê bình âm nhạc Hàn Quốc Kim Bong-hyun, coi đây là một trong 28 ca khúc định hình nên thể loại này.[283] Đây cũng là bài hát duy nhất của một nghệ sĩ solo được đưa vào danh sách những bài hát của thần tượng nam hay nhất trong 20 năm qua của The Dong-A Ilbo năm 2016.[284] Trong khi đó, Spin đã vinh danh "Crayon" là đĩa đơn K-pop hay nhất năm 2012, với bình luận của David Bevan rằng ca khúc này "gần như quá lớn so với sự kiện, quá táo bạo để đến từ thủ lĩnh của một nhóm nhạc nam".[285] Năm 2013, "Crooked" được bình chọn là Bài hát của năm của MTV Iggy, trang web này bình luận rằng "G-Dragon đã tạo nên tiếng vang lớn trong thế giới K-pop và hơn thế nữa với album solo Coup d'Etat. 'Crooked' trong album đó là giai điệu bất tận của sự bùng nổ của anh ấy."[286] Năm 2008, G-Dragon trở thành người trẻ nhất được liệt kê trong danh sách 10 nhạc sĩ vĩ đại nhất Hàn Quốc ở tuổi 20.[287] Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc hiện đang liệt kê hơn 180 bài hát mang tên G-Dragon.[288] Năm 2015, thu nhập hàng năm của G-Dragon từ tiền bản quyền bài hát ước tính lên tới hơn 700.000 đô la một năm.[289] He was the highest paid touring singer-songwriter in Korea, earning the most from songwriting royalties in 2012.[290] Năm 2018, anh cân bằng với nhà sản xuất của YG Entertainment Teddy Park về tiền bản quyền kiếm được nhiều nhất cho việc viết lời bài hát và sáng tác bài hát trong lĩnh vực âm nhạc đại chúng từ Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc.[291] Cả hai đều nhận được giải Daesang cho ca khúc này, khiến G-Dragon trở thành thần tượng đầu tiên và duy nhất cho đến nay nhận được giải thưởng này.[292]
G-Dragon được nêu bật là một trong "50 lý do tại sao Seoul là thành phố tốt nhất" của CNN vào năm 2011[293] và đứng đầu danh sách "Những thực thể có sức ảnh hưởng nhất của K-Pop" do Ilgan Sports bình chọn vào năm 2013.[65] Cùng năm đó, người hợp tác Diplo tuyên bố rằng G-Dragon là một "hiện tượng, [anh ấy] lớn hơn cả bức tranh K-pop."[294] Nam rapper cũng lọt vào danh sách "Những nhà lãnh đạo quyền lực của Hàn Quốc năm 2030" của tạp chí Forbes Hàn Quốc trong ba năm liên tiếp, gần đây nhất là vào năm 2014.[295] Năm 2018, 35 giám đốc điều hành từ 35 công ty trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc đã chọn G-Dragon là nghệ sĩ solo xuất sắc nhất Hàn Quốc[296] trong khi ABS-CBN liệt kê anh là trưởng nhóm thần tượng K-pop được yêu thích nhất của họ, vì sự sáng tạo, tận tụy và chăm chỉ của anh.[297] Cùng năm đó, The Guardian xếp hạng G-Dragon ở vị trí thứ 11 trong danh sách "30 thành viên nhóm nhạc nam xuất sắc nhất", trở thành một trong hai nghệ sĩ Hàn Quốc duy nhất được liệt kê.[298] G-Dragon đã được nhiều ấn phẩm truyền thông gọi là "Ông hoàng K-Pop" bao gồm Rolling Stone, Dazed và Vogue.[4][5][192] Nghệ thuật, sự nghiệp đa dạng, sự nổi tiếng và mức độ ảnh hưởng của anh đã được so sánh với ca sĩ người Mỹ Michael Jackson bởi Billboard,[299] Vogue,[192] và i-D, người đã ca ngợi anh là "Michael Jackson của thiên niên kỷ".[11] Mặc dù thành công với tư cách là nghệ sĩ solo và trưởng nhóm BigBang, G-Dragon đã thừa nhận rằng anh không nhận ra mình nổi tiếng đến mức nào cho đến khi tham gia chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của BigBang Alive Galaxy Tour.[137]
Đời tư
Năm 2018, The Gazette Review ước tính giá trị tài sản ròng của G-Dragon là 40 triệu đô la Mỹ.[300]
G-Dragon bắt đầu nghĩa vụ quân sự bắt buộc vào ngày 27 tháng 2 năm 2018. Sau khóa đào tạo cơ bản tại Sư đoàn Bộ binh số 3 'Xương Trắng' của Hàn Quốc ở Cheorwon, Tỉnh Gangwon, anh được phân công làm lính chính quy. Anh xuất ngũ vào ngày 26 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Bộ tư lệnh tác chiến mặt đất của Quân đội Hàn Quốc tại Yongin. Anh ấy đã tổ chức một sự kiện gần đó với khoảng 3000 người hâm mộ vào cùng ngày.[301]
Tháng 6 năm 2024, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) đã bổ nhiệm G-Dragon làm giáo sư thỉnh giảng trong thời gian hai năm, trong đó anh sẽ có bài giảng về lãnh đạo cho sinh viên của trường đại học.[302]
Những lời cáo buộc
G-Dragon có kết quả xét nghiệm dương tính với cần sa vào năm 2011.[303] Mặc dù xét nghiệm nước tiểu vào tháng 8 cho kết quả âm tính, nhưng xét nghiệm tóc vào tháng 10 lại phát hiện kết quả dương tính yếu với cần sa. Vì đây là lần đầu tiên anh phạm tội với một lượng nhỏ ma túy nên đã bị truy tố và anh không bị buộc tội.[304] Sau đó, anh ta khẳng định đã nhận một điếu thuốc do một người hâm mộ ở Nhật Bản tặng trong một bữa tiệc hồi tháng 5, nhưng đã vứt nó đi sau khi nhận ra đó không phải là một điếu thuốc bình thường.[305] Anh đã xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng sau vụ bê bối tại MTV EMAs 2011 với nhóm của mình.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 2023, G-Dragon đã bị Cảnh sát thành phố Incheon bắt giữ và điều tra vì cáo buộc sử dụng ma túy.[306][307][308] Vụ án đã được khép lại vào ngày 13 tháng 12 năm 2023 do một loạt các xét nghiệm ma túy có kết quả âm tính và không đủ bằng chứng.[309]
Bất động sản
Danh mục bất động sản của G-Dragon bao gồm nhiều căn hộ: một tại Cheongdam-dong (có giá trị từ 15 đến 18 tỷ won), một tại Seongsu-dong (có giá trị 3 tỷ won) và một tại Hannam-dong (có giá trị 16,4 tỷ won).[310] Anh cũng sở hữu một tòa nhà tổ hợp sáu tầng ở Cheongdam-dong được anh mua vào năm 2017 với giá 8,85 tỷ won.[311]
Danh sách đĩa nhạc
- Heartbreaker (2009)
- Coup d'Etat (2013)
- Übermensch (2025)
Danh sách phim và chương trình truyền hình
Lưu diễn
- Shine a Light Concert (2009)
- One of a Kind World Tour (2013)
- Act III: M.O.T.T.E World Tour (2017)
- Übermensch World Tour (2025)
Tham khảo
- ^ a b Russell, Mark (ngày 29 tháng 4 năm 2014). K-Pop Now!: The Korean Music Revolution. Tuttle Publishing. tr. 34. ISBN 978-1-4629-1411-1. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2016.
- ^ "K-Pop's G Dragon Eager For Challenge Of Solo Tour". Pollstar. ngày 20 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
- ^ Peng, Elizabeth (ngày 31 tháng 7 năm 2017). "G-Dragon, the Undisputed King of K-Pop, Takes New York". Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b c d e Chakraborty, Riddhi (ngày 14 tháng 7 năm 2017). "I Traveled All the Way to Bangkok to Watch the King of K-Pop Live and it Was Totally Worth it". Rolling Stone India. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b Edwina Mukasa (2013). "G-Dragon – K-pop's golden boy". Dazed. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
G-Dragon, is one of the most powerful artists within the K-pop industry and the current King of K-pop
- ^ Spangler, Todd (ngày 26 tháng 4 năm 2017). "K-Pop Superstars BigBang Go Camping in YouTube Red's First Korean Show". Variety.com. Penske Media Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.
- ^ "The Korean wave hits New York| Manhattan, New York, NY | Local News". ngày 11 tháng 1 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
{{Chú thích web}}
: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ Arnoldo, Claudia (ngày 3 tháng 5 năm 2013). "G-Dragon adds Hong Kong and Japan concert dates to solo world tour". Asia Pacific Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2017.
- ^ a b Herman, Tamar (ngày 25 tháng 4 năm 2017). "G-Dragon Announces 2017 Act III, M.O.T.T.E World Tour". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017.
- ^ a b '새 출발' 지드래곤 "마약 퇴치·편견 없는 사회 위한 재단 만들 것". Edaily . ngày 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Lochanski, Tess (ngày 27 tháng 6 năm 2017). ""korean style is about moving fast" -- g-dragon discusses the sound of korea's future". i-D. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ Lord, Richard (ngày 18 tháng 7 năm 2017). "Ahead of G-Dragon's Hong Kong show, we talk to him about new album, touring solo, and who Kwon Ji-yong really is". South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2017.
- ^ "Gaon Digital Chart - Untitled, 2014". Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
- ^ "Enjoy Mnet K·POP, Mwave". www.mwave.me (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2020.
- ^ Park, Hye-jin (ngày 6 tháng 2 năm 2018). [단독] "지디는 유통학 석사였다"...권지용, 꼼수 입영연기. Naver (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ a b c d e f Park, So-Youn (ngày 1 tháng 3 năm 2006). 新스타고백 지드래곤③연습생시절, 1년간 죽어라 청소만. Yahoo Korean News (bằng tiếng Hàn). Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b c Kim, So-ra (ngày 7 tháng 7 năm 2006). '준비된 그룹' 빅뱅, 대폭발 예고. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). The Chosun Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
- ^ "[新스타고백]지드래곤② "5년간 SM연습생이었다"(인터뷰)". www.asiae.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 27 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.
- ^ "korean rapper G-dragon talks Kpop hype new ep and past scandals". XXL magazine. ngày 10 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2022.
- ^ [新스타고백]지드래곤③연습생시절, 1년간 죽어라 청소만. asiae.co.kr. ngày 29 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
- ^ "G-dragon by 김효수, 지드래곤". bugsmusic. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2022.
- ^ a b 新스타고백지드래곤⑤아이돌그룹 활동, 망설였다 (bằng tiếng Hàn). Asiae News. ngày 2 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ a b "Big Bang Profile". KBS World. Korean Broadcasting System. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
- ^ 무제 문서. ngày 18 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2017.
- ^ "Big Bang's Showcase & First Fan Meeting". Arirang TV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2008.
- ^ Kim, Hyung-woo (ngày 21 tháng 1 năm 2008). 빅뱅 쥬크온차트 8주 연속 1위 기염, JOO도 2주만에 7위 진입. Newsen (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2008.
- ^ "Big Bang's 'Haru Haru' Sweeps J-POP Charts for Four Weeks". KBS World. Korean Broadcasting System. ngày 8 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2008.
- ^ Kim, Jung-hwa (ngày 8 tháng 5 năm 2009). '빅뱅' 지드래곤, 日그룹 '윈즈' 앨범 참여..뮤비도 출연. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). The Chosun Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
- ^ Yu, Nanan (ngày 19 tháng 5 năm 2009). G-Dragon与W-inds合作日本同台演出获好评 (bằng tiếng Trung). Sina. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
- ^ "G-Dragon Vol. 1 - Heartbreaker". Yes Asia. ngày 2 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
- ^ "G-Dragon of Big Bang to Release Solo Album". KBS World. Korean Broadcasting System. ngày 30 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
- ^ Cho, Jaeki; Kwak, Donnie. "G-Dragon Interview: Frequently Flyer (2013 Cover Story)". Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
- ^ 싱어송라이터로 독특한 음악세계 [Unique musical world of the singer-songwriter]. The Korea Times (bằng tiếng Hàn). ngày 12 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2017.
- ^ Han, Sang-Hee (ngày 22 tháng 11 năm 2009). "Music Awards Has Fresh Yet Disappointing Start". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2009.
- ^ Cho, Jae-hyon (ngày 25 tháng 9 năm 2009). "YG Hits Sony Over Plagiarism Allegations". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2009.
- ^ a b c Lee, Sung-moo (ngày 28 tháng 10 năm 2009). "Is Plagiarism a New Genre?". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2009.
- ^ Yoo, Jaesang (ngày 21 tháng 8 năm 2009). 지드래곤, '표절이라 단정하기엔 섣부른 판단!'. 한경닷컴. BNT News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2009.
- ^ Heo, Minyoung (ngày 17 tháng 9 năm 2010). 지드래곤 "거 봐? 표절 아니지". DongA News (bằng tiếng Hàn). The Dong-A Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2010.
- ^ Han, Sang-Hee (ngày 13 tháng 10 năm 2009). "G-Dragon to Hold 1st Solo Concert". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
- ^ "Singer G-Dragon Faces Obscenity Probe". The Chosun Ilbo. ngày 11 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
- ^ Cho, Jae-hyon (ngày 8 tháng 12 năm 2009). "G-Dragon's Suggestive Concert Creates Stir". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
- ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 19 tháng 12 năm 2009). "Fans defend G-Dragon against concert controversy". The Manila Publishing Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
- ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 8 tháng 1 năm 2010). "G-Dragon fans file petition over concert fiasco". The Manila Publishing Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
- ^ Lee, Jae-hoon (ngày 15 tháng 4 năm 2010). '선정성 재판' G드래곤 콘서트, 영화도 12세可. Nate (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
- ^ "G-Dragon and Top to Release Duet Album in December". KBS World. Korean Broadcasting System. ngày 30 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ Kim, Jessica (ngày 15 tháng 12 năm 2010). "Big Bang T.O.P, G-Dragon pose at album showcase". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ a b c Yoon, Hee-Seong (ngày 15 tháng 12 năm 2010). "G-Dragon and T.O.P hold world premiere showcase for duo unit". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ Hong, Lucia (ngày 24 tháng 12 năm 2010). "Big Bang unit G-Dragon and T.O.P release third title track". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Big Bang duo on TV today". Korea JoongAng Daily. JoongAng Media Network. ngày 13 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ Kim, Heidi (ngày 6 tháng 1 năm 2011). "IU "Good Day" stays atop Gaon chart for 4th week". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ 2010년 06주차 Album Chart. Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ Gye, Hye Sung (ngày 22 tháng 12 năm 2010). 발매 D-2' GD·탑 유닛 첫앨범, 선주문만 '20만장' (GD & TOP's album receives 200,000 pre-orders). Daum (bằng tiếng Hàn). Kakao Corp. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
- ^ 2011년 Download Chart. Gaon Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2017.
- ^ Choi, Min-ji (ngày 8 tháng 3 năm 2012). 빅뱅 지디앤탑, 픽시로트 '댄싱 온 마이 오운' 피처링 '궁금증 증폭'. TV Report (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ Park, Young-woong (ngày 13 tháng 3 năm 2012). 지드래곤, 8월 솔로앨범 발표확정..생일 맞춰 활동. Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ "G-Dragon - First Mini Album Tracklist". YG Life. YG Entertainment. ngày 3 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ Ho, Stewart. "G-Dragon Enters the Billboard 200 and Places First on the Billboard World Album Chart - M NET". Global.mnet.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012.
- ^ Lee, Nancy (ngày 25 tháng 8 năm 2012). "[Video] G-Dragon's 'One of a Kind' is Filled With Hidden Treasures". MWave. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ a b "One of a Kind + Crayon". Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ 국내 대표 음악 차트 가온차트!. Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ Bevan, David (ngày 12 tháng 12 năm 2012). "Life After Psy". Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
- ^ "Gaon Chart - 2012". Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2016.
- ^ Arnoldo, Claudia. "G-Dragon adds Hong Kong and Japan concert dates to solo world tour". US-China Today. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2015.
- ^ Won, Sunny (ngày 2 tháng 4 năm 2013). YG 양현석, GD 콘서트 35억원 선투자 '손익은?'. OSEN . Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ a b Um, Dongjin; Kim, Jinseok (ngày 26 tháng 9 năm 2013). [창간특집] 가요계 파워랭킹 1위, 브랜드 SM·가수 GD. Joins.com. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 28 tháng 8 năm 2013). "KCON 2013: 15 Things Seen & Heard". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 14 tháng 8 năm 2013). "Missy Elliott to Perform at K-Pop Conference'". The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ "GAON Weekly Single Chart". Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2014.
- ^ Cumulative sales for "Crooked":
- "Online Download – Year End 2013". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Year End 2014". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Year End 2015". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 03 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 04 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 05 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 06 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 07 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 08 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 09 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 10 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 11 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 18 of 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – Week 35 – 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2016.
- "Online Download – Week 36 – 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2016.
- ^ Min, Susan (ngày 24 tháng 1 năm 2017). "[Video] Big Bang G-Dragon's 'Crooked' Reaches 100 Million Views". Mwave. CJ DigitalMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ McCarthy, Zel; Mason, Kerri (ngày 19 tháng 12 năm 2013). "Top 50 Game-Changing EDM Tracks of 2013". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 12 tháng 9 năm 2013). "K-Pop Star G-Dragon Enters Billboard 200". Billboard.com. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2013.
- ^ Lee, Hyo-won (ngày 25 tháng 11 năm 2013). "K-Pop Star G-Dragon Wins Four at 2013 MAMAs". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ "G-Dragon Wins Best Entertainer and Best Album at 2014 World Music Awards". Senatus. ngày 19 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ 지드래곤, '형용돈죵' 대기실 앞에서 '찰칵'..."해볼라고". The Dong-A Ilbo. ngày 18 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2013.
- ^ Jeff Benjamin; Jessica Oak (ngày 10 tháng 7 năm 2014). "Taeyang Gives Track-By-Track Review of Record-Breaking 'Rise' Album (Exclusive Video)". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2017.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 1 tháng 12 năm 2014). "G-Dragon & Taeyang's 'Good Boy' Debuts at No. 1 on World Digital Songs". Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2015.
- ^ Cumulative sales for "Good Boy":
- "Online Download – November 2014". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
- "Online Download – December 2014". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
- "Online Download – 2015". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
- "Online Download – January 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – February 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2016.
- "Online Download – March 2016". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2016.[quá nhiều chú thích]
- ^ "G-Dragon, Taeyang's 'Good Boy' hits 100 million YouTube views". The Korea Herald. ngày 14 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 4 tháng 4 năm 2014). "CL, G-Dragon Bow on Hot Dance/Electronic Songs Chart Thanks to Skrillex's 'Dirty Vibe'". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015.
- ^ "US Hot Dance/Electronic Songs - Dirty Vibe". Billboard. ngày 21 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "US Dance/Electronic Digital Songs - Dirty Vibe". Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ 自由時報電子報 (ngày 20 tháng 12 năm 2015). 第一次為人創作!GD「無價」贈曲師弟iKON. The Liberty Times (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "Big Bang Wraps Up Japan 5-Dome Tour After Gathering Over 741,000 Fans". VisitKorea.or.kr. Korea Tourism Organization.[liên kết hỏng]
- ^ Gye, Hye Sung (ngày 6 tháng 3 năm 2016). 빅뱅, '메이드' 월드투어 1년 대장정 오늘(6일) 피날레..150만 동원. Star MT. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2017.
- ^ Jeon, Su Mi (ngày 30 tháng 5 năm 2016). "Big Bang Successfully Completes Japan Fanclub Tour". M.net. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018.
- ^ 演唱会年报(四):韩国歌手活跃度下降,港台老牌歌手仍是市场主角 (bằng tiếng Trung). Weidu8. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
- ^ Woo, Jae-yeon (ngày 23 tháng 1 năm 2017). "BIGBANG finishes global tour in HK, attracting 1.4 mln from 6 cities". Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2016.
- ^ Hwang, Hye Jin (ngày 29 tháng 6 năm 2015). "'Infinity Challenge' Addresses Song Festival Spoilers". Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ "Gaon Digital Download - 2015". Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
- ^ Manuel, Mei (ngày 4 tháng 9 năm 2016). "'Muhan Company' Director Talks About G-Dragon's Acting". China Christian Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "G-Dragon makes accidental acting debut". Asia One. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Herman, Tamar (ngày 17 tháng 3 năm 2016). "M.I.A. & G-Dragon Team Up on Baauer's 'Temple' From His Debut Album 'Aa'". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ "Baauer Chart history". Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "[Exclusive]G-DRAGON to Feature on ZION.T's New Song". YG Life. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2017.
- ^ [가온차트_2017년 01월간] 에일리, '첫눈처럼 너에게 가겠다' 가온차트 1월 종합1위. Korea Music Content Industry Association (KMCIA). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
- ^ Herman, Tamar (ngày 21 tháng 4 năm 2017). "IU Releases Coming-of-Age Single 'Palette,' Feat. G-Dragon". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ 2017년 17주차 Digital Chart. Gaon Digital Chart. Korea Music Content Industry Association (KMCIA). ngày 29 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ "[Exclusive] GD&TAEYANG confirmed to come back as solo artists... BIGBANG is coming again". YG Life. ngày 7 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2017.
- ^ "[Official Announcement] Title of G-DRAGON's New Album is "KWON JIYONG", and the Title Song is "BULLSHIT"". YG Life. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2017.
- ^ "(LEAD) G-Dragon switches new album's title song amid T.O.P scandal". Yonhap News Agency. ngày 8 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
- ^ Yoon, Min-sik (ngày 26 tháng 12 năm 2017). "G-Dragon's USB EP is legitimate: Gaon". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ Guerra, Joey (ngày 20 tháng 7 năm 2017). "K-pop star G-Dragon explores celebrity, identity at Houston show". Houston Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2017.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 21 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon Tops World Albums Chart for 2nd Week to Nearly Double Total U.S. Sales". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2017.
- ^ Benjamin, Jeff. "G-Dragon's 'Kwon Ji Yong' Earns His Best U.S. Sales Week Yet in Just 1 Day". Billboard K-Town (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2017.
- ^ Kim, Jae Seong (ngày 12 tháng 6 năm 2017). 지드래곤, 음원 발표 하루 만에 중국서 번 돈이.... Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2017.
- ^ Jie, Ye-eun (ngày 15 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon's 'Kwon Ji Yong' going strong in China". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2017.
- ^ GD, 세 번째 솔로 콘서트 개최...YG "날짜 확정無" [공식입장]. Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2017.
- ^ Yang, Jin-young (ngày 31 tháng 3 năm 2013). [단독] 빅뱅 지드래곤, 6월10일 4년 만에 솔로 콘서트 개최...상반기 컴백 임박. NewsPim. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2017.
- ^ "Official site: G-DRAGON 2017 WORLD TOUR <ACT III, M.O.T.T.E>". YG Entertainment. ngày 25 tháng 4 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2017.
- ^ "G-Dragon adds five European cities to on-going solo concert tour". Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2017.
- ^ BIGBANGのG-DRAGON、2017年ソロワールドツアーの東京ドーム公演DVD&Blu-rayが2月7日リリース決定!. kstyle.com (bằng tiếng Nhật). ngày 28 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2017.
- ^ Sung, Mi Kyung (ngày 21 tháng 9 năm 2017). 지드래곤, 日 공연서 군입대 언급.."빅뱅 투어 후 긴 공백". OSEN . Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2017.
- ^ Herman, Tamar (ngày 23 tháng 8 năm 2018). "G-Dragon Tour Documentary 'Kwon Ji Yong Act III: Motte' Heading to YouTube Premium". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
- ^ Kim, Hye Sun (ngày 14 tháng 2 năm 2018). 지드래곤, 27일 현역 입대 확정 "조용히 입소"(공식). Naver. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "BigBang make K-pop comeback with single Still Life, their first in 4 years". South China Morning Post (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2022.
- ^ 뿔뿔이 흩어진 빅뱅, 지드래곤X태양 6년만 솔로 기지개[뮤직와치]. Newsen. ngày 1 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ YG "지드래곤과 전속계약 만료...별도 계약 통해 협력 중" [공식]. Naver. ngày 6 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ 지드래곤, '피지컬:100' 제작사와 전속계약? "공식답변 불가". Naver. ngày 5 tháng 12 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ [단독]'마약 누명' 벗은 지드래곤, 갤럭시 안간다...YG 복귀 유력. Sports Seoul. ngày 20 tháng 12 năm 2023.
- ^ 지드래곤, 갤럭시行 확정..."YG 덕에 지금의 권지용 있어, 내년 컴백" [엑's 현장]. Xports News . ngày 20 tháng 12 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ "G-Dragon returns with digital single 'Power' after seven-year hiatus". Korea JoongAng Daily. ngày 31 tháng 10 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2024.
- ^ "BIGBANG's G-Dragon Announces First Solo Comeback In 7 Years With POWER". Times Now. ngày 30 tháng 10 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2024.
- ^ ""Comeback" G-Dragon "16 years ago used transactions → Taeyang and the older members prepare meals" (U-Quiz)". Sports Chosun. ngày 30 tháng 10 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2024.
- ^ Jeff, Benjamin. "G-Dragon Releases Comeback Single 'POWER', Announces Partnership With Indie Label EMPIRE". Billboard.
- ^ 허, 진무 (ngày 22 tháng 11 năm 2024). 승리·탑 빠진 '빅뱅' 다시 뭉쳤다...지드래곤 '홈 스위트 홈' 함께 불러. Kyunghyang Shinmun (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2024.
- ^ 빅뱅, 완전체로 '마마' 찢었다... 지드래곤 '파워'부터 '뱅뱅뱅'까지 압도적 존재감. Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 23 tháng 11 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2024.
- ^ "Digital Chart – Week 49 of 2024". Circle Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2024.
- ^ Jeon, Hyo-jin (ngày 26 tháng 12 năm 2024). 지드래곤·투애니원→뉴진스, K팝 세대 집결 '가요대전' 최고 5.1% [TV종합] [G-Dragon, 2NE1 → New Jeans, K-pop Generations Gathers 'Gayo Daejun' Highest 5.1% [TV Comprehensive]]. Sports Dong-a (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2024 – qua Naver.
- ^ Shekhar, Mimansa (ngày 24 tháng 1 năm 2025). "J-Hope, Rose, G-Dragon, Taeyang's Magical Acts To Adorable Interactions, Here's How K-Pop Ruled Le Gala Des Pieces Jaunes Stage". Times Now. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2025.
- ^ Myung, Hee-sook (ngày 4 tháng 2 năm 2025). 지드래곤, 25일 정규 앨범 발매 확정...신드롬 일으킬까. Xports News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
- ^ Lee, Mi-young (ngày 4 tháng 2 năm 2025). 2월 25일, 지드래곤 신드롬이 다시 시작된다. News Culture (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2025.
- ^ Lee, Yoon-seo (ngày 21 tháng 1 năm 2025). "G-Dragon, star producer to work on solo entertainment show". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b Kim, Ji-ye (ngày 13 tháng 2 năm 2025). "G-Dragon unites with 'Infinite Challenge' producer for new variety show 'Good Day'". Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2025.
- ^ Lee, Gyu-lee (ngày 24 tháng 1 năm 2025). "G-Dragon's music show 'Good Day' with star producer to stream on Disney+". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2025.
- ^ Peterson, Jacques (ngày 13 tháng 10 năm 2015). "On the edge of K-pop: boy band Big Bang's unique appeal". The Sydney Morning Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ a b Sun, Rebecca (ngày 29 tháng 1 năm 2014). "K-Pop Star G-Dragon on His Growing Global Influence: 'I Didn't Realize How Famous I Was' (Q&A)". The Hollywood Reporter. Eldridge Industries. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2014.
- ^ a b "G-Dragon's 15 Favorite Albums". Complex Magazine. ngày 13 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2016.
- ^ Kim, Wong-Yeon (ngày 28 tháng 2 năm 2008). "Big Bang, Brown Eyed Girls, Jewelry... The trend of J-pop 'Electronica'". Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2008.
- ^ Benjamin, Jeff; Vincenty, Samantha (ngày 1 tháng 12 năm 2014). "10 Best Dance Songs We Heard in November ft. Calvin Harris, Kaskade, DJ Mustard & More". Fuse.tv. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2015.
- ^ 新스타고백 지드래곤⑫"솔로앨범, 저한테는 도박이었죠". 10Asiae (bằng tiếng Hàn). The Asia Business Daily. ngày 11 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010.
- ^ Com, Segye (ngày 10 tháng 10 năm 2012). '인기가요' 지드래곤, '화려한 퍼포먼스' 눈길. Segye (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2017.
- ^ a b "G-Dragon Goes Solo with One Of A Kind". Seoul Beats (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b c Cho, Jaeki (ngày 13 tháng 10 năm 2013). "The Making of G-Dragon's "Coup D'Etat"". Complex Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2016.
- ^ Oak, Jessica (ngày 2 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon Reveals Video for Diplo/Baauer-Produced "COUP D'ETAT" & Star-Studded Album Features". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
- ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (ngày 4 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon, 'COUP D'ETAT': First Listen". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
- ^ Hogan, Marc (ngày 6 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon Spreads Anarchy in K-Pop With Punk-Charged 'Crooked' Video". Spin. Spin Media. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b c Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (ngày 4 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon, 'COUP D'ETAT': First Listen". Billboard.com. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
- ^ Jamshed, Zahra (ngày 5 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon – Crooked". Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2017.
- ^ Frederick, Brendan (ngày 2 tháng 12 năm 2013). "32. G Dragon f/ Missy Elliott "Niliria" - The 50 Best Songs of 2013". Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2017.
- ^ Glasby, Taylor (ngày 21 tháng 6 năm 2017). "The K-pop songs you need to hear this month". Dazed Digital. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b Benjamin, Jeff (ngày 8 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon Makes His Solo Return With 'Kwon Ji Yong' Album & 'Untitled 2014' Video". Fuse. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2017.
- ^ "G-Dragon Defines Himself on "Kwon Ji Yong"". Seoul Beats. ngày 14 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b c d Herman, Tamar (ngày 9 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon Gets Personal With Eponymous 'Kwon Ji Yong' EP". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b Kang, Myoung-Seok. "Big Bang G-Dragon Pt. 2". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ Kang, Myoung-Seok. "Big Bang G-Dragon Pt. 1". 10Asiae. The Asia Business Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
- ^ Bevan, David (ngày 21 tháng 1 năm 2013). "K-Pop's New Style: G-Dragon Blazes a Cray Path". Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ Aisha Gani (ngày 3 tháng 3 năm 2014). "K-pop: a beginner's guide". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2016.
- ^ Cho, Eeun-ju (ngày 10 tháng 8 năm 2009). 지드래곤 '소년이여' 깜짝 공개 "대박 조짐?". JK News (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2010.
- ^ Hong, Grace Danbi (ngày 31 tháng 8 năm 2012). "Big Bang's G-Dragon to Release Censored MV of 'That XX'". Mwave (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Bevan, David (ngày 21 tháng 1 năm 2013). "K-Pop's New Style: G-Dragon Blazes a Cray Path". Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
- ^ a b Park, Hee-a (ngày 13 tháng 6 năm 2017). G-Dragon 고별展│가사로 본 지 드래곤의 인생. Ize Magazine (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2017.
- ^ Hwang, Hye Jin (ngày 20 tháng 12 năm 2017). "Big Bang's G-Dragon Says He Wrote 'If You' When He was in Love". Mwave. CJ DigitalMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Park, Eunho (ngày 8 tháng 6 năm 2015). 지드래곤 "'배배', 프랜시스 베이컨 작품 보고 야한 느낌 받아 작업". Ten Asia (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
One day I was looking at some of Francis Bacon's work in a museum and it strangely felt erotic to me. I'm not sure why. We were working on the album at the time, while I was writing the music, I kept looking at his paintings. So they inspired me a lot one way or another.
- ^ "BIGBANG's G-Dragon says he feels the emptiness in his idol life". Asia Today . ngày 22 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2013.
- ^ Oak, Jessica (ngày 11 tháng 11 năm 2013). "BIGBANG's Taeyang Balances EDM & Hip-Hop on 'Ringa Linga'". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ "G-Dragon composes track for iKON's new album". AsiaOne. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Doo, Rumy (ngày 29 tháng 6 năm 2016). "Movie shows Big Bang in natural state" (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ Chua, Charlene. "G-Dragon thanks himself on stage". Asia One. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ Ramli, Bibi Nurshuhada (ngày 28 tháng 7 năm 2016). "BigBang onstage and off-stage". NST Online (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ Deml, Jessica (ngày 25 tháng 5 năm 2018). "G Dragon Net Worth 2018 - Gazette Review". Gazette Review (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Oak, Jessica; Benjamin, Jeff. "G-Dragon Opens Up at World Tour Kickoff:Exclusive Video Interview". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
- ^ Kim, Ji-yeom. "G-Dragon Again Shows He Can Stand Alone in Solo Concerts". MWave. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
- ^ Sacro, Jenet (ngày 14 tháng 8 năm 2017). "G-Dragon 'ACT III MOTTE' Concert – Hisense Arena, Melbourne. (12.08.17)". Asian Pop Radio (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Fita, Savanah (ngày 5 tháng 8 năm 2017). "Concert Review: G-DRAGON vs. Kwon Jiyong". The Kraze (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ a b Lim, Kimberly (ngày 20 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon lays bare his heart in Macau". The New Paper (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Herman, Tamar (ngày 25 tháng 4 năm 2017). "G-Dragon Announces 2017 Act III, M.O.T.T.E World Tour". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ Chong, Joelle (ngày 30 tháng 7 năm 2013). "3 factors that made G-Dragon's concert 'One Of a Kind'". MeRadio. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
- ^ a b Glasby, Taylor (ngày 8 tháng 2 năm 2017). "G-Dragon: "There's no right answer in fashion"". Dazed (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ "G-Dragon Defines Himself on "Kwon Ji Yong"". Seoul Beats (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
- ^ Lord, Richard (ngày 18 tháng 7 năm 2017). "Ahead of Hong Kong show, G-Dragon explains who he really is". South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Yoon, Min-sik (ngày 11 tháng 6 năm 2017). "[Herald Review] G-Dragon reveals 'true self' at Seoul concert". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Jung, E. Alex (ngày 2 tháng 8 năm 2017). "G-Dragon's World Tour Marks the End of an Era in K-Pop". Vulture.com. New York Media LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2017.
- ^ Lee, Eun Jung (ngày 4 tháng 2 năm 2011). GDㆍ탑이 밝힌 '불화설'과 '스캔들' (bằng tiếng Hàn). Yonhap News. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010 – qua Naver.
- ^ Kang, Jiyong (ngày 27 tháng 11 năm 2007). 빅뱅 G드래곤 "의상 전공에 욕심있다" [Big Bang's G-Dragon: I'm interested in majoring in fashion] (bằng tiếng Hàn). SSTV. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2008.
- ^ Yoon, Hyun-jin (ngày 21 tháng 1 năm 2009). 강동원 "보헤미안 스타일 올 가을 유행 예감"[포토엔]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Girls' Generation Taeyeon, Big Bang's G-Dragon: Craziest K-Pop Hair Color Trends On Instagram". Fashion & Style. ngày 2 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Sablan, Niño Mark (ngày 24 tháng 7 năm 2009). "Crazy For K-pop". Philippine Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.
- ^ Chan, Caylen (ngày 2 tháng 11 năm 2015). 向 G-DRAGON 取經,打造 5 大男裝女穿的限定 ANDROGYNY 風!. Harper's Bazaar Hong Kong (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2013.
- ^ Graham, Bryan Armen (ngày 13 tháng 10 năm 2015). "Big Bang review – K-pop heroes deliver candyfloss hooks with a sharp edge". The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Park, Hyun-young (ngày 8 tháng 9 năm 2016). Breaking gender stereotypes(국문). Korea JoongAng Daily. JoongAng Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
- ^ a b c Peng, Elizabeth (ngày 31 tháng 7 năm 2017). "G-Dragon, the Undisputed King of K-Pop, Takes New York". Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
- ^ Turra, Alessandra (ngày 3 tháng 9 năm 2015). "Giuseppe Zanotti, G-Dragon Collaborate on Footwear Capsule". WWD (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Henning, Kristen (ngày 1 tháng 12 năm 2015). "Giuseppe Zanotti Reveals His Favorite Celebrity Custom Designs". Footwear News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ "BIGBANG star G-Dragon is a global fashion leader: Report". International Business Times, India Edition. ngày 24 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Glasby, Taylor (ngày 16 tháng 7 năm 2015). "How K-pop star G-Dragon took over Paris couture". Dazed. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ Kim, Monica (ngày 16 tháng 1 năm 2016). "6 Times G-Dragon Was the Best Dressed Man at Chanel". Vogue.com. Condé Nast. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Coscarelli, Joe (ngày 19 tháng 7 năm 2017). "Catch G-Dragon at Barclays Center While You Can". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
The breakout K-pop star G-Dragon, of the South Korean boy band BigBang, is a spectacle and a style icon, a chameleon who often makes peak-era Lady Gaga seem staid.
- ^ a b "Chanel Continues to Target Korea with New Brand Ambassador". The Fashion Law. ngày 17 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2017.
- ^ a b Chae, Ki-won; Lee, Jin-hyuk (ngày 29 tháng 11 năm 2011). "[INTERVIEW] Big Bang G-Dragon Pt. 1 -". Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ Sung, So-Young (ngày 27 tháng 11 năm 2015). "GQ Korea names G-Dragon Man of the Year". Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
- ^ "G-Dragon Voted Best-Dressed Celebrity of the Year". The Chosun Ilbo. ngày 25 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2017.
- ^ The Cut (ngày 22 tháng 12 năm 2014). "The Best-Dressed Street-Style Stars of 2014, a Ranking". New York Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2017.
- ^ Aboutaleb, Britt (ngày 22 tháng 9 năm 2015). "Caitlyn Jenner, Gigi Hadid & Rihanna Top BOF 500". Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "G-Dragon". Business of Fashion. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2016.
- ^ Son, Ji-hyoung (ngày 31 tháng 1 năm 2016). "G-Dragon only Korean among Hypebeast's 100 innovators". Kpop Herald. Herald Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2017.
- ^ Cha, Frances (ngày 23 tháng 11 năm 2012). "K-Pop superstar takes logical next step, builds hotel for fans, gives it to his parents". CNN Travels. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2014.
- ^ Cafe Aewol Monsant 카페 애월 드 몽상. Trazy Korea's No. 1 Travel Shop. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
- ^ Mairs, Jessica (ngày 4 tháng 2 năm 2016). "Platform_a completes reflective glass and volcanic stone café on Jeju island coast". Dezeen Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
- ^ Hong, Seok (ngày 26 tháng 9 năm 2015). [리폿&현장] '빅뱅' 지드래곤, 제주 카페 오픈..."가오픈에도 열기 후끈". TV리포트 (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Jeju Shinhwa World to open theme park, G-Dragon cafe". Yonhap News Agency. ngày 11 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
- ^ Kim, Honghwa (ngày 21 tháng 2 năm 2011). 한국 연예인 "몸값"순위 (bằng tiếng Hàn). Heilongjiang Newspaper. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2014.
- ^ Yee, Yip Wai (ngày 20 tháng 8 năm 2015). "K-pop superstar G-Dragon to host Asian fans at his digs for winners of Airbnb contest". The Straits Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Choi, Seung-jin (ngày 17 tháng 6 năm 2016). "S. Korean heartthrob G-Dragon boosts sales of Shinsegae Duty Free". Pulse. Maeil Business Newspaper. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ Luk, Jonathan (ngày 3 tháng 3 năm 2016). "G-DRAGON Signs Endorsement Deal With Italian Sportswear Company Kappa". Highs Nobiety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Chong, Manling (ngày 3 tháng 3 năm 2016). 代言爆冷!GD要當Kappa救世主. Apple Daily (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "G-Dragon Promotes Hyundai's New Compact at Beijing Expo". Chosun. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Lai, Pengxiang (ngày 12 tháng 2 năm 2017). 韓流天團BIGBANG隊長GD與美髮品牌推限量特別版. Now News (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Tay, Vivienne (ngày 29 tháng 3 năm 2017). "Korean popstar G-Dragon fronts new Nike Air Max campaign". Marketing. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ [엔터비즈]지드래곤, 프리미엄 복합리조트 제주신화월드 브랜드 앰버서더 발탁. Sports Chosun. ngày 23 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "G-DRAGON of BIGBANG Selected as a Model for a Chinese Brand... Conquers Local Billboards". Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
- ^ Azuddin, Alisha (ngày 23 tháng 4 năm 2021). "G-Dragon Is TS Shampoo's Newest Ambassador". Harper's Bazaar Malaysia. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2024.
- ^ Tan, Chloe (ngày 18 tháng 4 năm 2023). "Tiger Beer teams up with global ambassador G-Dragon on new campaign to appeal to Gen Z". Marketing-Interactive. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2025.
- ^ Lee, Min-hyung (ngày 7 tháng 3 năm 2023). "BMW Korea distances itself from G-Dragon amid drug-use allegations". The Korea Times. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2024.
- ^ Choi, Ji-won (ngày 12 tháng 1 năm 2025). "G-Dragon becomes new face of Hana Financial". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2025.
- ^ Farmer, Brian (ngày 24 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon x AMBUSH 2013 Collection". Highs Nobiety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Oliveira, Tricia (ngày 9 tháng 9 năm 2014). "Chow Tai Fook x G-Dragon Jewellery Collection". Senatus. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ Oliveira, Tricia (ngày 19 tháng 9 năm 2014). "G-Dragon collaborates with HK jeweller to produce limited edition collection". Asia One. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b Won, Ho-jung (ngày 8 tháng 6 năm 2015). "G-Dragon's world: PEACEMINUSONE". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ "G-Dragon to hold art exhibition". Asia One. ngày 26 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ "G-Dragon art exhibition opens in Seoul". Channel News Asia. ngày 11 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2015.
- ^ Khoo, Verinia (ngày 10 tháng 9 năm 2015). "Giuseppe Zanotti collaborates with G-Dragon". Ella. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
- ^ "(#32) Richard Prince". Sotheby's. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2025.
- ^ Sunio, Patti (ngày 9 tháng 9 năm 2021). "G-Dragon's OTT art and decor collection: Kaws plushies, a George Condo painting and a Man Ray chess set are just a few of the pieces filling the K-pop idol's museum-like home ..." South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2025.
- ^ Valerio, Mike (ngày 8 tháng 9 năm 2024). "Pharrell's Joopiter puts on sale of K-pop star G-Dragon's prized possessions". CNN. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2025.
- ^ "BIGBANG's G-Dragon and 8 Seconds Embark on Landmark Collaboration". Samsung C&T Newsroom. ngày 8 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ "8 Seconds, G-Dragon Inspire 'Here and Now' Energy in New Summer Collection". Samsung C&T Newsroom. ngày 10 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2025.
- ^ Li, Nicholas (ngày 3 tháng 10 năm 2016). "G-Dragon Launches Latest Project PEACEMINUSONE". Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2017.
- ^ Allwood, Emma Hope (ngày 7 tháng 12 năm 2016). "G-Dragon's clothing line launches in London". Dazed. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
- ^ Ozemebhoya, Esiwahomi (ngày 3 tháng 7 năm 2017). "Take an Exclusive Look at G-Dragon's PEACEMINUSONE Pop-Up in Seoul". Hypebae. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Fu, Joanna (ngày 30 tháng 11 năm 2016). "G-Dragon's PEACEMINUSONE & AMBUSH Design Team up for a Denim Offering". Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2017.
- ^ Leach, Alec (ngày 11 tháng 8 năm 2016). "Juun.J's FW16 Campaign Features G-Dragon and Taeyang". Highs Nobiety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Goh, Angela (ngày 17 tháng 11 năm 2016). "K-Pop icon G-Dragon fronts Chanel as new ambassador". Marie France Asia, women's magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
- ^ Sawyer, Jonathan (ngày 26 tháng 6 năm 2017). "G-Dragon Is the Star of Chanel's New Gabrielle Bag Campaign". Highsnobiety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Estiler, Keith (ngày 27 tháng 7 năm 2017). "G-Dragon Launches Exclusive PEACEMINUSONE Pop-Up at Alchemist in Miami". Hype Beast. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
- ^ Remsen, Nick (ngày 21 tháng 7 năm 2017). "G-Dragon Lands in Miami at Alchemist". Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Patos, Robert (ngày 2 tháng 9 năm 2017). "G-Dragon's PEACEMINUSONE Pop-Up Makes Pit Stops in Osaka and Hong Kong". Hype Beast. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
- ^ Silbert, Jake (ngày 23 tháng 10 năm 2017). "Inside the PEACEMINUSONE x 'Vogue' Korea Pop-Up". Hype Beast. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
- ^ Fu, Joanna (ngày 21 tháng 12 năm 2017). "Peaceminusone X Colette Collection". Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ 지드래곤 x 나이키 에어 포스 1 '파라-노이즈'는 어떤 스니커인가?. ngày 22 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
- ^ Han, Su-ji (ngày 25 tháng 11 năm 2020). '지디 포스' 에어포스원 파라노이즈 2, 응모 방법은?...25일 오전 10시 나이키 공식 홈에서 추첨. topstarnews (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
- ^ Li, Nicolaus (ngày 5 tháng 11 năm 2020). "Nike Officially Announces G-Dragon's PEACEMINUSONE x AF1 "Para-Noise 2.0"". Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
- ^ Kim, Yeeun. "A TIMELINE OF G-DRAGON'S COLLABORATION WITH NIKE". HBX. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2024.
- ^ Santiago, Elliot (ngày 30 tháng 3 năm 2023). "The PEACEMINUSONE x Nike Kwondo 1 "Panda" Receives a Release Date". Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2024.
- ^ Gavino, Nico (ngày 15 tháng 1 năm 2025). "AMBUSH Delves Into Its Archives for New Book With Rizzoli". Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2025.
- ^ Lee, Seung-gil (ngày 4 tháng 5 năm 2015). YG, 네팔에 1억원 기부...어린이 구호물품·의약품에 사용 (bằng tiếng Hàn). My Daily . Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022 – qua Naver.
- ^ Hong, Grace Danbi (ngày 22 tháng 8 năm 2016). "Big Bang G-Dragon Fans Donate 9.9 Tons of Rice". M Wave. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ Park, Don-kyoo (ngày 22 tháng 8 năm 2016). "G-Dragon Fans Donate Rice To End Tour". KBS Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
- ^ "G-Dragon donates to U.N. refugee agency on birthday". Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "G-Dragon Honored for Donation to Help Children". The Chosun Ilbo & Chosun. ngày 12 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ Park, Don-kyoo (ngày 22 tháng 8 năm 2016). "G-Dragon Donates Money to UN Refugee Agency on His Birthday". The Chosun Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ Chabba, Seerat (ngày 24 tháng 11 năm 2016). "Chance To Meet G-Dragon In New HIV Campaign". Yahoo! News. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
- ^ Hong, Dam-young (ngày 15 tháng 5 năm 2017). "'G-Dragon' forest opens in Jeju". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2017.
- ^ "K-Pop star G-Dragon to launch anti-drug foundation". ABS-CBN News. ngày 22 tháng 12 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2023.
- ^ Shim, Sun-ah (ngày 5 tháng 8 năm 2024). "G-Dragon launches foundation to fight drug abuse". Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2025.
- ^ 양현석, 빅뱅 권지용 작곡 논란 해명. Chosun (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
- ^ Kim, Jae-heun (ngày 10 tháng 11 năm 2016). "More K-pop idols active in producing music". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Block B's Zico Wants to Be Like Seo Taiji and G-Dragon?". Retrieved by Soompi. Pia Magazine. ngày 11 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2017.
By gaining experience as an idol, I think it can be useful for becoming a producer later on. My goal is to be like Seo Taiji or G-Dragon.
- ^ 비오 "롤모델은 지드래곤, 미움 신경 쓰지 말라고 조언" (걍나와) [Be'O "My role model is G-Dragon, my advice is not to worry about hatred"]. Sports World (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 27 tháng 10 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
- ^ Jung, Jin Young (ngày 24 tháng 1 năm 2014). "Got7's BamBam Says His Role Model is Big Bang's G-Dragon". M Wave. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
- ^ Jungkook:
- Hwang, Hye Jin (ngày 17 tháng 5 năm 2018). [뮤직와치]'슈스케 통편집→메인 작곡돌' 방탄 황금막내 정국, 놀라운 성장史. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2018.
- "BTS' J-Hope names his role models, and we bet you'll be surprised at who they are". Bollywood Life (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.
- ^ 아스트로의 롤모델, 동방신기부터 지코ㆍ비ㆍ이승기까지 '다양' [Astro's role models, from TVXQ to Zico, B, and Lee Seung-gi, are 'various']. TV Daily. ngày 22 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
- ^ Won, Hae-sun (ngày 9 tháng 7 năm 2017). 'V라이브' 세븐틴 에스쿱스 "GD '무제' 듣고 눈물···존경해". Herald POP (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2017.
- ^ Tee, Allen (ngày 25 tháng 12 năm 2016). "Jaden Smith wants to become a K-Pop star; Collaboration with G-Dragon in the works?". Yibada. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ 윤하 "지드래곤, 닮고 싶은 셀러브리티다" [화보] [Younha "G-Dragon is a celebrity I want to be like" [Pictorial]]. Sports Dong-a (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 24 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2022.
- ^ Jung, UK (ngày 11 tháng 7 năm 2017). "One says G-Dragon is his role model and he's inspired by GD". Kpop Behind. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Hong, Grace Danbi (ngày 31 tháng 3 năm 2014). "Lee Seung Hwan says Big Bang's G-Dragon is His Fashion Role Model". Yahoo! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
- ^ '투맨쇼' 김이나 "지드래곤, 타블로 보면서 영감 얻어" (bằng tiếng Hàn). Enews24. ngày 10 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ '라스' 딘딘, 싱크로율 200% 지드래곤 따라잡기 예고. Herald POP (bằng tiếng Hàn). ngày 11 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018 – qua Nate.
- ^ Hadfield, James (ngày 20 tháng 8 năm 2012). "Summer Sonic: Grimes interview". Time Out Tokyo. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
- ^ Mukasa, Edwina (ngày 1 tháng 2 năm 2013). "G-Dragon – K-pop's golden boy". Dazed & Confused. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
Musically, Grimes provided one of her more fangirl moments on Twitter, writing "G Dragon i love you" and "G-Dragon is definitely the pinnacle of pop for me".
- ^ Ye, Jie (ngày 10 tháng 3 năm 2018). [TEN 인터뷰] '믹스나인 1위' 우진영의 꿈. Daum (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
- ^ Kim, Min (ngày 5 tháng 8 năm 2017). [책의 향기]홍서범부터 GD까지 '쇼 미 더' 한국 힙합. Dong-a News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2017.
- ^ Lee, Ji-hoon; Lim, Hee- yoon; Jung, Yang-hwan (ngày 1 tháng 9 năm 2016). "반짝반짝 눈이 부셔"... 빅뱅-소녀시대 역대 최고 아이돌 원문보. The Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
- ^ Bevan, David (ngày 21 tháng 1 năm 2013). "K-Pop's New Style: G-Dragon Blazes a Cray Path". Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2017.
- ^ Park, Jin-hai (ngày 22 tháng 1 năm 2014). "G-Dragon tops MTV Iggy 2013 with "Crooked"". The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2017.
- ^ StarNews (ngày 18 tháng 11 năm 2008). 2008년을 빛낸 가요 작곡가 '8+1'인은?. Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2020.
- ^ "Search: G-Dragon". Korea Music Copyright Association. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017.
- ^ Lee, Yeon-Ju (ngày 14 tháng 1 năm 2016). 빅뱅 멤버 5명 자산 400억...GD 150억 추정. Superich (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.[liên kết hỏng]
- ^ 음원 저작권 수입 순위, 박진영-조영수-유영진-테디 '지드래곤은?'. Donga Sports. ngày 4 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
- ^ Lee, Eun Jung (ngày 21 tháng 2 năm 2018). 지드래곤·테디, 작년 작사·작곡 저작권료 수입 1위. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
- ^ 네이버 모바일 메인. Naver (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2020.
- ^ Cha, Frances; Corne, Lucy (ngày 13 tháng 7 năm 2017). "50 reasons why Seoul is the world's greatest city". CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Cho, Jaeki; Kwak, Donnie (ngày 1 tháng 9 năm 2013). "G-Dragon: Frequently Flyer (2013 Cover Story)". Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Kim, Ji-hyun; Kim, Hyun Kyung; Jung, Soo-jeong (ngày 23 tháng 1 năm 2014). "2030 Power Leader List". Forbes Korea. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
- ^ Hong, Seung-han (ngày 22 tháng 6 năm 2014). [창간특집 가요설문②]최고 솔로 GD·아이유, 기대주 아이들, 최고 매니지먼트 SM 엔터. Sports Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2018.
- ^ Blancada, Almira (ngày 4 tháng 3 năm 2018). "In Focus: Why G-Dragon Will Always Be Our Favorite K-Pop Leader". ABS-CBN Lifestyle. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
- ^ Cragg, Michael (ngày 13 tháng 12 năm 2018). "The 30 best boyband members – ranked!". The Guardian. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2019.
- ^ Oak, Jessica; Benjamin, Jeff (ngày 4 tháng 4 năm 2013). "G-Dragon Opens Up at World Tour Kickoff: Exclusive Video Interview". Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017.
- ^ Deml, Jessica (ngày 25 tháng 5 năm 2018). G Dragon Net Worth 2018. The Gazette Review. tr. 34. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2018.
- ^ Hollingsworth, Julia (ngày 26 tháng 10 năm 2019). "Fans rejoice as K-pop star G-Dragon finishes compulsory military service". CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2019.
- ^ 지드래곤, 카이스트 초빙교수 된다 "과학기술 전문가들과 시너지 낼 것" (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2024.
- ^ "Korean rapper Kush nabbed for using cocaine, in yet another incident involving a YG Entertainment artist". The Straits Times (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ Hicap, Jonathan (ngày 22 tháng 10 năm 2011). "YG Entertainment affected by G-Dragon's marijuana scandal". Manila Bulletin Publishing Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2015.
- ^ Hong, Dam-young (ngày 12 tháng 12 năm 2017). "Rapper Kush nabbed buying cocaine". The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "BigBang's G-Dragon under police probe for drug use". The Straits Times. Singapore. ngày 25 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2023.
- ^ "G-Dragon booked for investigation over alleged drug use". The Korea Times. ngày 25 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2023.
- ^ Ziwei, Puah (ngày 26 tháng 10 năm 2023). "Big Bang's G-Dragon booked by police for suspected drug use". NME. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2023.
- ^ Yoon, So-Yeon (ngày 13 tháng 12 năm 2023). "Police to close G-Dragon's drug use case, report says". Korea JoongAng Daily. JoongAng Ilbo.
- ^ "G-Dragon adds a 15 billion Won luxury unit to his 56 billion Won real estate collection". Times of India. ngày 17 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2025.
- ^ "G-Dragon's property 'March Rabbit' sees value rise by over 8 billion KRW in seven years: Report". Times of India. ngày 11 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2025.
- ^ "The Act III: Moment of Truth The End". imdb.com. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2022.
Liên kết ngoài
Tư liệu liên quan tới G-Dragon tại Wikimedia Commons