Diễm Lộc (nghệ sĩ chèo)
Diễm Lộc tên đầy đủ là Phan Thị Lộc (sinh năm 1938)[1] là nghệ sĩ chèo, diễn viên truyền hình Việt Nam, bà nổi tiếng với vai diễn Xúy Vân trong vở chèo Kim Nham. Diễn xuất của bà trong vai này được xem là kinh điển và ít ai sánh được, tên tuổi của bà còn đi kèm với Xúy Vân trong từ điển bách khoa toàn thư của Việt Nam và Liên Xô.[2][3] Sau khi về hưu, bà tham gia một số phim truyền hình và thành công ngay với bộ phim đầu tay năm 2001.
Diễm Lộc | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Phan Thị Lộc |
Ngày sinh | 1938 (85–86 tuổi) |
Nơi sinh | Hà Nội, Liên bang Đông Dương |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | Diễn viên |
Sự nghiệp điện ảnh | |
Nghệ danh | Diễm Lộc |
Vai trò | Diễn viên |
Năm hoạt động | 1996 - 2015 |
Vai diễn | Bà Bơ trong Nắng chiều |
Sự nghiệp sân khấu | |
Nghệ danh | Diễm Lộc |
Vai trò | Diễn viên |
Năm hoạt động | 1956 - 1985 |
Thể loại | Chèo |
Vai diễn | Xúy Vân trong Kim Nham |
Giải thưởng | |
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13 2001 Nữ diễn viên chính phim video xuất sắc | |
Thuở nhỏ
sửaPhan Thị Lộc sinh năm 1938 tại Ba Vì - Sơn Tây,[4][5] mồ côi cha khi mới 5 tuổi. 3 anh em bà được mẹ đưa theo đến sống tại Láng Hạ, Hà Nội.[5][6]
Sự nghiệp
sửaKhi còn thiếu niên Diễm Lộc đã bộc lộ năng khiếu chèo được chọn tham gia các hoạt động văn nghệ địa phương với vai diễn Xúy Vân.[6] Khi Bộ Văn hóa tổ chức một lớp dạy chèo tại Gia Lâm trong 3 tháng, Diễm Lộc đã tham gia và được nghệ nhân Dịu Hương phát hiện tài năng. Sau khi nghe Diễm Lộc hát thử “Duyên phận phải chiều”, Dịu Hương và nhà viết kịch Lưu Quang Thuận đánh giá cao khả năng của bà.[1] Năm 1956, Diễm Lộc được nghệ sĩ Lưu Quang Thuận tuyển về làm diễn viên cho đoàn chèo của Sở văn hóa Hà Nội.[3][5] Năm 1957 Diễm Lộc được tuyển vào Đoàn Chèo Cổ Phong khi đoàn mới được thành lập, bà may mắn được đạo diễn Trần Huyền Trân tuyển vào vở Kim Nham, vở diễn chuẩn bị cho hoạt động ra mắt của Đoàn chèo, với sự chỉ dẫn của nghệ sĩ Dịu Hương, Diễm Lộc được đi diễn khắp Hà Nội với vai diễn Xúy Vân.[1][7] Một thời gian sau, Diễm Lộc chuyển sang Đoàn 1 của Nhà hát Chèo Việt Nam, thời điểm này nghệ sĩ Trần Bảng đang cải biên lại vở Kim Nham để phù hợp với thời đại, phù hợp vai trò của phụ nữ trong thời đại mới. Tên vở Kim Nham cũng được ông đổi thành Xúy Vân.[6][5] Trong những ngày đầu tại Nhà hát, bà luôn trang điểm kỹ chờ đợi cơ hội được đóng một vai chính.[4] Nghệ sĩ nhân dân Trần Bảng sau này đã giao vai diễn Xúy Vân cho bà, sự thay đổi trong kịch bản khiến những kinh nghiệm diễn mà Diễm Lộc có được bấy nhiêu năm qua không còn phù hợp. Sự mới mẻ của kịch bản đã tạo ra cú sốc với khiến khán giả, một Xúy Vân khác hẳn với những Xúy Vân trước đây đã tạo cơ hội giúp Diễm Lộc nổi bật lên như một ngôi sao sáng trong làng Chèo thời bấy giờ.[1] Vai diễn Xúy Vân đã đem về cho bà một huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu năm 1962.[4][6] Năm 1969, cuộc sống của Diễm Lộc có sự thay đổi khi bà ly hôn và một mình nuôi con. Năm 1986, dường như sự thành công của bà quá lớn, đã phần nào ảnh hưởng đến cơ hội và bước tiến của "một số cá nhân" nên bà đã nhận được quyết định nghỉ hưu non.[4][5] Khoảng cuối thập niên 1990, Diễm Lộc bắt đầu tham gia đóng phim truyền hình.
Năm 2001, Diễm Lộc tham gia bộ phim điện ảnh truyền hình Nắng chiều của Đài truyền hình Việt Nam, với bộ phim này bà đã giành được giải Nữ diễn viên chính xuất sắc hạng mục Phim video tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13, lúc này, tuổi bà đã ngoài 60.[4] Sau thành công này, bà tiếp tục tham gia một số vai phụ trong các phim truyền hình khác như Đường đời, Mùa lá rụng, Lều chõng...
Ngoài vai diễn Xúy Vân, Diễm Lộc còn là người sáng tạo hành động cài hoa lên tóc của Thị Mầu, các thế hệ nghệ sĩ sau này đã học theo bà thậm chí khiến động tác bị lạm dụng khi họ áp dụng với nhiều nhân vật nữ khác.[6][4] Được các đồng nghiệp đánh giá là diễn viên có lối diễn tự nhiên, tác phong chuyên nghiệp, nắm rõ các bài diễn mà không dùng đến kịch bản.[4] Khi câu lạc bộ những nghệ sĩ về hưu của Nhà hát Chèo Việt Nam được thành lập, Diễm Lộc cùng đồng nghiệp được mời đi diễn ở địa phương, dạy diễn xuất cho các đoàn và luyện thi tài năng trẻ.[4]
Dù đã trở thành Nghệ sĩ ưu tú từ đợt phong danh hiệu đầu tiên năm 1984, nhưng phải đến năm 2015, ở độ tuổi 80 bà mới đăng ký xét duyệt danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Điều này cũng khiến thành viên hội đồng xét duyệt phải bất ngờ.[1][8][9]
Giải thưởng
sửa- 1962 - Hội diễn sân khấu - huy chương vàng tiết mục Xúy Vân giả dại[6]
- 1984 - phong hiệu Nghệ sĩ ưu tú[10][1]
- 2015 - phong hiệu Nghệ sĩ nhân dân[1]
- 2001 - Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13 - Nữ diễn viên chính xuất sắc - phim Nắng chiều
Vai diễn
sửaVai diễn sân khấu nổi bật
sửa- Chị Ba Đẹp trong Lọ nước thần
- Nàng Châu Long trong Lưu Bình Dương Lễ
- Thị Mầu trong Quan Âm Thị Kính
- Tấm trong Tấm Cám
- Chị Trúc trong Bên sông Trà Khúc
- Xúy Vân trong Kim Nham
Truyền hình
sửaNăm | Tựa đề | Vai diễn | Đạo diễn | Định dạng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
1996 | Sinh ngày 2-9 | Nguyễn Khải Hưng | Điện ảnh truyền hình | ||
1999 | Cầu vồng đi đón cơn mưa | Vũ Trường Khoa | |||
1999 | Đêm hội làng năm ấy | Trần Quốc Trọng | |||
2000 | Giếng làng | Mạc Văn Chung | |||
2001 | Nắng chiều | Bà Bơ | Hoàng Trần Doãn | ||
Mùa lá rụng | Bà Chí | Trần Quốc Trọng | Truyền hình ngắn tập | ||
Người dưng | Lê Lực | Điện ảnh truyền hình | |||
Cảnh sát hình sự (Từ đen đến trắng) | Nguyễn Khải Hưng | Truyền hình ngắn tập | |||
2002 | Một ngày của tổ trưởng | Trịnh Lê Phong | Điện ảnh truyền hình | ||
Đợi | Vũ Đình Thân | ||||
2004 | Bảy ngày... làm vợ | Hữu Mười, Phạm Quang Xuân | |||
Lời thề cỏ non | Hoàng Lâm | Truyền hình ngắn tập | |||
Đường đời | Mẹ Hải | Trần Quốc Trọng, Trần Hoài Sơn | Truyền hình dài tập | ||
2005 | Dòng sông phẳng lặng | bà Tịnh Nhơn | Đỗ Đức Thành | Truyền hình ngắn tập | |
2006 | Gió mùa thổi mãi | Trần Quốc Trọng | |||
2007 | Phóng viên thử việc | ||||
2008 | Tết không chỉ có hoa đào | Bùi Tuấn Dũng | |||
2010 | Vệt nắng cuối trời | Bạch Yến | Trần Hoài Sơn | Truyền hình dài tập | |
2010 | Lều chõng | bà Cống | Nguyễn Thanh Vân | ||
2015 | Màu của tình yêu | bà Kha | Mai Hồng Phong | Truyền hình ngắn tập |
Tham khảo
sửaLiên kết ngoài
sửaTham khảo
sửa- ^ a b c d e f g Huyền Thu (19 tháng 10 năm 2017). “Nàng Súy Vân bất tử”. Báo Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ “Diêm Lôc, une sommité du chèo”. Vietnam+ (VietnamPlus) (bằng tiếng Pháp). 28 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b Mai Văn Lạng. “NSƯT Diễm Lộc "Súy Vân": Người của một thời”. Mai Văn Lạng (trang cá nhân). Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h Trọng Trường (10 tháng 10 năm 2017). “Tuổi già an nhàn của 'Xúy Vân' Diễm Lộc”. VnExpress. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b c d e Ngô Hương Sen (14 tháng 1 năm 2011). “NSƯT Diễm Lộc: "Con gà rừng" phẩy cánh giữa ngày đông”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b c d e f Thảo Duyên (27 tháng 6 năm 2012). “NSƯT Diễm Lộc: Có được thì phải có mất”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ Theo báo Dân Sinh (23 tháng 6 năm 2018). “NSND Diễm Lộc: Nàng 'Súy Vân' của kịch nghệ sân khấu”. Báo An Ninh Trật Tự. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ Thanh Hà (30 tháng 7 năm 2015). “Lùm xùm danh hiệu NSND, NSƯT: Tiết lộ những "thâm cung bí sử"”. Báo Thanh Tra. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ Sơn Minh, Khuê Tú (14 tháng 1 năm 2016). “NSND Diễm Lộc: 'Danh hiệu, tiền tài đều là vật ngoài thân'”. Znews.vn. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
- ^ “Danh sách nghệ sĩ ưu tú đợt 1 - 1984”. Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. 27 tháng 1 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2024.